Danh sách các nhà bác học được giải Noben Vật lý


Thập niên 1900

1901 Wilhelm Conrad Röntgen Khám phá ra tia X.
1902 Hendrik Lorentz và Pieter Zeeman Đóng góp cho từ học và bức xạ.
1903 Henri Becquerel Nghiên cứu về hiện tượng phóng xạ.
Pierre Curie và Maria Skłodowska-Curie Nghiên cứu về hiện tượng phóng xạ cùng với Henri Becquerel.
1904 John Strutt, Nam tước Rayleigh thứ 3 Tìm ra khí Agon và các hiện tượng liên quan.
1905 Philipp Lenard Nghiên cứu về ống chùm ca-tốt.
1906 Sir J. J. Thomson Nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm về quá trình dẫn điện của chất khí.
1907 Albert Abraham Michelson Chế tạo dụng cụ quang học chính xác và nghiên cứu về quang phổ học.
1908 Gabriel Lippmann Tạo hình ảnh màu bằng phương pháp giao thoa.
1909 Guglielmo Marconi và Karl Ferdinand Braun Phát triển liên lạc viễn thông.

Thập niên 1910

1910 Johannes Diderik van der Waals Phương trình trạng thái của chất khí và chất lỏng.
1911 Wilhelm Wien Tìm ra định luật bức xạ nhiệt.
1912 Gustaf Dalén Phát minh van mặt trời dùng thắp sáng các cột mốc và phao trên biển.
1913 Heike Kamerlingh Onnes Nghiên cứu tính chất của vật chất tại nhiệt độ thấp và tạo ra hêli lỏng.
1914 Max von Laue Phát hiện ra hiện tượng nhiễu xạ tia X bởi các tinh thể.
1915 Sir William Henry Bragg và
Sir William Lawrence Bragg Nghiên cứu tính chất tinh thể bằng tia X.
1916 (Tiền của giải thưởng được dùng cho Quỹ đặc biệt.)
1917 Charles Glover Barkla Tìm ra bức xạ tia X đặc trưng của các nguyên tố.
1918 Max Planck Thúc đẩy vật lý bằng việc tìm ra lượng tử năng lượng.
1919 Johannes Stark Tìm ra hiệu ứng Doppler trong ánh sáng và sự tách các vạch phổ dưới tác dụng của từ trường.

Thập niên 1920

1920 Charles Edouard Guillaume Nghiên cứu về đo lường chính xác và tìm ra hợp kim thép và niken.
1921 Albert Einstein Nghiên cứu về hiệu ứng quang điện và đóng góp khác cho vật lý lý thuyết.
1922 Niels Bohr Nghiên cứu về cấu trúc nguyên tử và phát xạ nguyên tử.
1923 Robert Millikan Nghiên cứu về điện tích điện tử và hiệu ứng quang điện.
1924 Manne Siegbahn Nghiên cứu trong lĩnh vực phổ tia X.
1925 James Franck và Gustav Ludwig Hertz Nghiên cứu ảnh hưởng của điện tử lên nguyên tử.
1926 Jean Baptiste Perrin Nghiên cứu về tính gián đoạn của vật chất và đặc biệt là tìm ra cân bằng ngưng tụ.
1927 Arthur Compton Tìm ra hiệu ứng Compton.
Charles Thomson Rees Wilson Quan sát được hạt tán xạ có năng lượng cao
1928 Owen Willans Richardson Phát hiện việc phát xạ điện tử là do hiệu ứng nhiệt
1929 Louis de Broglie, Công tước de Broglie thứ 7 Tìm ra bản chất sóng của điện tử

Thập niên 1940

1930 Sir Chandrasekhara Venkata Raman Tìm ra hiệu ứng Raman.
1931 (Tiền thưởng được đưa vào Quỹ đặc biệt.)
1932 Werner Heisenberg Xây dựng cơ học lượng tử và nhờ đó tìm ra các dạng thù hình của hiđrô.
1933 Erwin Schrödinger và Paul Dirac Tìm ra một cách biểu diễn mới cho lý thuyết nguyên tử.
1934 (1/3 số tiền thưởng dành cho Quỹ chính, 2/3 dành cho Quỹ đặc biệt.)
1935 Sir James Chadwick Tìm ra neutron.
1936 Victor Francis Hess Tìm ra bức xạ vũ trụ.
Carl David Anderson Tìm ra phản điện tử (positron).
1937 Clinton Davisson và George Paget Thomson Tìm ra tán xạ điện tử trên tinh thể bằng thực nghiệm.
1938 Enrico Fermi Chứng minh sự tồn tại của các nguyên tố phóng xạ mới nhờ chiếu xạ neutron và nghiên cứu về phản ứng hạt nhân.
1939 Ernest Lawrence Phát minh và phát triển máy gia tốc cyclotron và nguyên tố phóng xạ nhân tạo

Thập niên 1940

1940 (1/3 giải dành cho Quỹ chính, 2/3 giải dành cho Quỹ đặc biệt.)
1941
1942
1943 Otto Stern Phát triển phương pháp chùm phân tử và tìm ra mô men từ của proton.
1944 Isidor Isaac Rabi Phương pháp cộng hưởng để thu được từ tính của hạt nhân nguyên tử.
1945 Wolfgang Pauli Tìm ra nguyên lý loại trừ Pauli.
1946 Percy Williams Bridgman Phát minh ra dụng cụ đo áp suất cao và các phát hiện trong lĩnh vực vật lý áp suất cao.
1947 Sir Edward Victor Appleton Nghiên cứu vật lý của tần trên khí quyển và đặc biệt là tìm ra lớp Appleton.
1948 Patrick Blackett Phát triển phương pháp buồng mây Wilson và các khám phá trong lĩnh vực
vật lý hạt nhân và bức xạ vũ trụ.
1949 Hideki Yukawa (湯川 秀樹) Tiên đoán về sự tồn tại của hạt meson trên cơ sở lý thuyết về các lực hạt nhân.

Thập niên 1950

1950 Cecil Frank Powell Phát triển phương pháp chụp ảnh để nghiên cứu hạt nhân và các nghiên cứu về hạt meson thu được từ phương pháp này.
1951 Sir John Cockcroft và Ernest Walton Tiên phong trong nghiên cứu biến tố hạt nhân bằng các hạt nguyên tử được gia tốc nhân tạo.
1952 Felix Bloch và Edward Mills Purcell Phát triển các phương pháp mới đo chính xác từ hạt nhân và các khám phá có liên quan.
1953 Frits Zernike Phát triển phương pháp tương phản pha, đặc biệt là phát minh ra kính hiển vi tương phản pha.
1954 Max Born Nghiên cứu cơ bản về cơ học lượng tử đặc biệt là ý nghĩa thống kê của hàm sóng.
Walther Bothe Tìm ra phương pháp trùng hợp và các khám phá có liên quan.
1955 Willis Lamb Phát hiên cấu trúc tinh tế của quang phổ hydrogen.
Polykarp Kusch Xác định chính xác mô men từ của điện tử.
1956 William Shockley, John Bardeen và Walter Brattain Nghiên cứu về chất bán dẫn và tìm ra hiệu ứng transistor.
1957 Dương Chấn Ninh (楊振寧) và Lý Chính Đạo (李政道) Nghiên cứu về tính chẵn lẻ dẫn đến các khám phá quan trọng liên quan đến các hạt cơ bản.
1958 Pavel Alekseyevich Cherenkov (Павел Алексеевич Черенков), Ilya Mikhailovich Frank (Илья Михайлович Франк) và Igor Yevgenyevich Tamm (Игорь Евгеньевич Тамм) Tìm ra và giải thích hiệu ứng Cherenkov.
1959 Emilio Gino Segrè và Owen Chamberlain Tìm ra phản proton.

Thập niên 1960

1960 Donald Arthur Glaser Phát minh ra buồng bọt
1961 Robert Hofstadter Tiên phong trong nghiên cứu về tán xạ điện tử trong hạt nhân và các khám phá liên quan đến cấu trúc của các nucleon.
Rudolf Mössbauer Nghiên cứu về hấp thụ cộng hưởng tia gamma và hiệu ứng Mossbauer.
1962 Lev Davidovich Landau (Лев Давидович Ландау) Tiên phong trong nghiên cứu lý thuyết chất rắn đặc biệt là hêli lỏng.
1963 Eugene Wigner Đóng góp vào lý thuyết hạt nhân nguyên tử và các hạt cơ bản đặc biệt là tìm ra và ứng dụng các nguyên lý đối xứng cơ bản.
Maria Goeppert-Mayer và J. Hans D. Jensen Tìm ra cấu trúc lớp hạt nhân.
1964 Charles Townes, Nicolay Gennadiyevich Basov (Николай Геннадиевич Басов) và Aleksandr Mikhailovich Prokhorov (Александр Михайлович Прохоров) Nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực điện lượng tử dẫn đến việc xây dựng các máy tạo dao động và máy khuyếch đại dựa trên nguyên lý maser-laser.
1965 Sin-Itiro Tomonaga (朝永振一郎), Julian Schwinger và Richard Feynman Nghiên cứu cơ bản về điện động học lượng tử và vật lý hạt cơ bản.
1966 Alfred Kastler Tìm ra và sử dụng các phương pháp quang học để nghiên cứu cộng hưởng Hertz trong các nguyên tử.
1967 Hans Bethe Đóng góp cho lý thuyết phản ứng hạt nhân đặc biệt là các khám phá liên quan đến quá trình tạo năng lượng ở các vì sao.
1968 Luis Alvarez Đóng góp vào vật lý hạt cơ bản, tìm ra các trạng thái cộng hưởng góp phần phát triển kỹ thuật sử dụng buồng bọt hydrogen và phân tích dữ liệu.
1969 Murray Gell-Mann Đóng góp và khám phá liên quan đến phân loại các hạt cơ bản và tương tác giữa chúng.

Thập niên 1970

1970 Hannes Alfvén "for fundamental work and discoveries in magneto-hydrodynamics with fruitful applications in different parts of plasma physics"
Louis Eugène Félix Néel "for fundamental work and discoveries concerning antiferromagnetism and ferrimagnetism which have led to important applications in solid state physics"
1971 Gábor Dénes (Dennis Gabor) "for his invention and development of the holographic method"
1972 John Bardeen, Leon Neil Cooper và John Robert Schrieffer "for their jointly developed theory of superconductivity, usually called the BCS-theory"
1973 Leo Esaki (江崎 玲於奈) và Ivar Giaever "for their experimental discoveries regarding tunneling phenomena in semiconductors and superconductors, respectively"
Brian David Josephson "for his theoretical predictions of the properties of a supercurrent through a tunnel barrier, in particular those phenomena which are generally known as the Josephson effect"
1974 Sir Martin Ryle và Antony Hewish "for their pioneering research in radio astrophysics: Ryle for his observations and inventions, in particular of the aperture synthesis technique, and Hewish for his decisive role in the discovery of pulsars"
1975 Aage Niels Bohr, Ben Roy Mottelson và James Rainwater "for the discovery of the connection between collective motion and particle motion in atomic nuclei and the development of the theory of the structure of the atomic nucleus based on this connection"
1976 Burton Richter và Đinh Triệu Trung (丁肇中, Samuel Chao Chung Ting) "for their pioneering work in the discovery of a heavy elementary particle of a new kind". In other words: for discovery of the J/Ψ particle as it confirmed the idea that baryonic matter (such as the nuclei of atoms) is made out of quarks.
1977 Philip Warren Anderson, Sir Nevill Francis Mott và John Hasbrouck van Vleck "for their fundamental theoretical investigations of the electronic structure of magnetic and disordered systems"
1978 Pyotr Leonidovich Kapitsa (Пётр Леонидович Капица) "for his basic inventions and discoveries in the area of low-temperature physics"
Arno Allan Penzias và Robert Woodrow Wilson "for their discovery of cosmic microwave background radiation"
1979 Sheldon Lee Glashow, Abdus Salam và Steven Weinberg "for their contributions to the theory of the unified weak and electromagnetic interaction between elementary particles, including, inter alia, the prediction of the weak neutral current"

Thập niên 1980

1980 James Cronin và Val Logsdon Fitch Tìm ra sự vi phạm các nguyên lý đối xứng cơ bản trong của hạt K-meson.
1981 Nicolaas Bloembergen và Arthur Leonard Schawlow Phát triển phổ laser.
Kai Siegbahn Phát triển phổ điện tử độ phân giải cao.
1982 Kenneth G. Wilson Xây dựng lý thuyết về các hiện tượng tới hạn liên quan đến chuyển pha.
1983 Subrahmanyan Chandrasekhar Nghiên cứu lý thuyết về tiến hóa của các vì sao.
William Alfred Fowler Nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm các phản ứng hạt nhân và sự hình thành các nguyên tố hóa học trong vũ trụ.
1984 Carlo Rubbia và Simon van der Meer Đóng góp quan trọng trong việc tìm ra các hạt W, Z truyền tương tác yếu.
1985 Klaus von Klitzing Phát hiện ra hiệu ứng Hall lượng tử.
1986 Ernst Ruska Nghiên cứu cơ bản về quang điện tử, thiết kế kính hiển vi điện tử đầu tiên.
Gerd Binnig và Heinrich Rohrer Thiết kế hiển vi đường hầm quét.
1987 Johannes Georg Bednorz và Karl Alexander Müller Tìm ra hiện tượng siêu dẫn trong vật liệu gốm.
1988 Leon M. Lederman, Melvin Schwartz và Jack Steinberger Phương pháp chùm neutrino và cấu trúc kép của lepton thông qua việc tìm ra muon neutrino.
1989 Norman F. Ramsey Phát minh ra phương pháp trường dao động sử dụng trong maser
hydrogen và đồng hồ nguyên tử.
Hans Georg Dehmelt và Wolfgang Paul Phát triển kỹ thuật bẫy.

Thập niên 1990

1990 Jerome Isaac Friedman, Henry Way Kendall và Richard Ẹ Taylor Nghiên cứu tán xạ không đàn hồi của điện tử lên proton và neutron giúp phát triển mô hình quark.
1991 Pierre-Gilles de Gennes Phương pháp nghiên cứu các hiện tượng trật tự trong các hệ đơn giản được khái quát hóa cho các hệ phức tạp, đặc biệt trong tinh thể lỏng và cao phân tử.
1992 Georges Charpak Phát triển máy thu hạt và buồng đa dây.
1993 Russell Alan Hulse và Joseph Hooton Taylor, Jr. Phát hiện ra một loại pulsar mới giúp nghiên cứu về trường hấp dẫn.
1994 Cả hai Phát triển kỹ thuật nhiễu xạ neutron trong nghiên cứu vật lý chất rắn.
Bertram Brockhouse Phát triển phổ neutron.
Clifford Shull Phát triển kỹ thuật nhiễu xạ neutron.
1995 Cả hai Đóng góp thực nghiệm vào vật lý lepton.
Martin Lewis Perl Tìm ra tau lepton.
Frederick Reines Thu được neutrino.
1996 David Lee, Douglas D. Osheroff và Robert Coleman Richardson Phát hiện ra tính siêu chảy của helium-3.
1997 Chu Lệ Văn (朱棣文, Steven Chu), Claude Cohen-Tannoudji và William Daniel Phillips Phát triển phương pháp làm lạnh, bẫy nguyên tử bằng ánh sáng laser.
1998 Robert B. Laughlin, Horst Ludwig Störmer và Thôi Kỳ (崔琦, Daniel Chee Tsui) Tìm ra một loại chất lỏng lượng tử mới, giúp giải thích điện tử có điện tích không nguyên.
1999 Gerardus 't Hooft và Martinus J.G. Veltman Sáng tỏ cấu trúc lượng tử của tương tác điện yếu trong vật lý.

Thập niên 2000

2000
Zhores Ivanovich Alferov (Жорес Иванович Алферов) và Herbert Kroemer Phát triển cấu trúc không đồng nhất bán dẫn được dùng trong quang điện tử tốc độ cao.
Jack Kilby Phát minh ra mạch tích hợp.
2001 Eric Allin Cornell, Wolfgang Ketterle và Carl Wieman Thực hiện được thí nghiệm ngưng tụ Bose-Einstein.
2002 Raymond Davis Jr. và Masatoshi Koshiba (小柴 昌俊) Đóng góp vào vật lý thiên văn và thu hạt neutrino.
Riccardo Giacconi Đóng góp vào vật lý thiên văn và tìm ra nguồn tia X vũ trụ.
2003 Alexei Alexeevich Abrikosov (Алексей Алексеевич Абрикосов), Vitaly Lazarevich Ginzburg (Виталий Лазаревич Гинзбург) và Anthony James Leggett Phát triển lý thuyết siêu dẫn và siêu lỏng.
2004 David Gross, H. David Politzer và Frank Wilczek Tìm ra bậc tự do tiệm cận trong tương tác mạnh.
2005 Roy J. Glauber Đóng góp cho lý thuyết lượng tử quang học.
John L. Hall và Theodor W. Hänsch Phát triển spectroscopy với độ chính xác laser.

Vật lý là gì?


Vật lý được coi là một môn khoa học cơ bản nhất của khoa học tự nhiên. Vật lý nghiên cứu những thành phần cơ bản nhất của vật chất và các tương tác giữa chúng cũng như nghiên cứu về các nguyên tử và việc tạo thành phân tử và chất rắn. Vật lý cố gắng đưa ra những mô tả thống nhất về tính chất của vật chất và bức xạ, bao quát rất nhiều loại hiện tượng. Trong một số ứng dụng, vật lý rất gần với hóa học cổ điển và trong một số ứng dụng khác nó thường liên quan chặt chẽ đến các đối tượng nghiên cứu của các nhà thiên văn học. Các xu hướng của vật lý hiện nay đang hướng đến vi sinh học.
Mặc dù hóa học và thiên văn học là các ngành khoa học hoàn toàn độc lập, nhưng cả hai đều coi vật lý là cơ sở trong nghiên cứu các lĩnh vực, khái niệm và công cụ của các vấn đề khoa học. Phân biệt cái nào là vật lý và hóa học trong một số lĩnh vực thường là rất khó. Điều này cũng được minh chứng vài lần trong lịch sử của các giải Nobel. Dưới đây sẽ nhắc đến một số giải Nobel về hóa học đặc biệt là những giải có liên hệ rất chặt chẽ đến các công trình mà những người đoạt giải Nobel vật lý thực hiện. Đối với thiên văn học, tình huống lại khác vì không có giải Nobel cho thiên văn học nên ngay từ đầu, những phát kiến của thiên văn học được trao giải Nobel về vật lý.
Từ vật lý cổ điển đến vật lý lượng tử
Năm 1901, khi giải Nobel đầu tiên được trao thì các lĩnh vực của vật lý cổ điển đã dựa trên một nền tảng vững chắc do các nhà vật lý và hóa học vĩ đại của thế kỉ thứ 19 tạo nên. Hamilton đã đưa ra những công thức mô tả động học của vật rắn từ những năm 1830. Carnot, Joule, Kelvin và Gibbs đã phát triển nhiệt động học tới mức cực kì hoàn thiện trong nửa cuối của thế kỉ đó.
Các phương trình nổi tiếng của Maxwell đã được chấp nhận như là một mô tả tổng quát về các hiện tượng điện từ và có thể ứng dụng trong bức xạ quang học và sóng radio lúc bấy giờ mới được Hetz phát hiện.
Tất cả mọi thứ, bao gồm cả các hiện tượng sóng, có vẻ như là rất phù hợp với bức tranh vật lý được dựng trên chuyển động cơ học của các thành phần của vật chất tự thể hiện trong các hiện tượng vĩ mô khác nhau. Một số nhữung nhà quan sát cuối thể kỉ 19 cho rằng, những việc cho các nhà vật lý làm tiếp theo là giải quyết những vấn đền nhỏ trong một vấn đề lớn đã được xây dựng gần hết.
Tuy vậy, sự thỏa mãn về bức tranh vật lý đó kéo dài không được bao lâu. Thời điểm bước sang thế kỉ mới là thời điểm quan sát các hiện tượng mà vật lý lúc bấy giờ không lý giải được và những ý tưởng cực mới về cơ sở của vật lý lý thuyết được đưa ra. Chúng ta cần nhìn lại một sự trùng hợp lịch sử mà có thể ngay cả chính Alfred Nobel cũng không thấy trước được, đó là việc trao giải thưởng Nobel đã bắt đầu đúng lúc để có thể ghi công những đóng góp nổi bật mở ra thời đại mới của vật lý vào giai đoạn đó.
Một trong những hiện tượng không giải thích được của vài năm cuối cùng của thế kỉ 19 đó là việc Wilhelm Conrad Rontgen, người được trao giải Nobel vật lý đầu tiên (1901) phát hiện ra tia X vào năm 1895. Lại nữa, năm 1896 Antoine Henri Becquerel phát hiện ra hiện tượng phóng xạ và hai vợ chồng nhà bác học Marie và Pierre Curie tiếp tục nghiên cứu bản chất của hiện tượng này. Lúc bấy giờ, người ta chưa hiểu nguồn gốc của tia X, nhưng người ta nhận ra rằng sự tồn tại của hiện tượng đó che dấu một thế giới các hiện tượng mới (mặc dù lúc đầu người ta chưa thấy những ứng dụng thực tiễn trong việc chẩn đoán bệnh của tia X). Nhờ công trình về hiện tượng phóng xạ, Becquerel vợ chồng Curie được trao giải Nobel năm 1903 (một nửa giải cho Becquerel và một nửa cho vợ chồng Curie). Cùng với công trình của Ernest Rutherford (người đạt giải Nobel về hóa học năm 1908) người ta hiểu rằng thực ra nguyên tử bao gồm một hạt nhân rất nhỏ chứ không phải là một phần tử không có cấu trúc như người ta từng nghĩ như trước đây. Người ta còn thấy một số hạt nhân nguyên tử lại không bền, chúng có thể phát ra các bức xạ anpha, betha và gamma. Đó là cuộc cách mạng lúc bấy giờ, cùng với nhiều công trình vật lý khác, con người đã vẽ ra những bức tranh đầu tiên về cấu trúc nguyên tử.
Năm 1897, Joseph J. Thomson phát hiện các tia phát ra từ ca-tốt trong một ống chân không là những hạt có mang điện tích. Ông đã chứng minh rằng, các tia này gồm những hạt rời rạc mà sau này chúng ta gọi là các hạt điện tử. Ông đã đo tỉ số giữa khối lượng của hạt và điện tích (âm) của hạt đó và thấy rằng giá trị đó chỉ bằng một phần rất nhỏ so với giá trị dự đoán của các nguyên tử mang điện. Và ngay sau đó người ta thấy rằng các hạt có khối lượng nhỏ bé mang điện tích âm đó phải là những viên gạch cùng với hạt nhân mang điện tích dương đã tạo nên tất cả các loại nguyên tử. Thomson nhận giải Nobel vào năm 1906. Trước đó một năm (1905), Phillip E.A. von Lenard đã làm sáng tỏ rất nhiều tính chất thú vị của những tia phát ra từ ca-tốt như là khả năng đi sâu vào những tấm kim loại và tạo ra huỳnh quang. Sau đó, vào năm 1912, Robert A. Millikan lần đầu tiên đo chính xác điện tích của điện tử bằng phương pháp giọt dầu (oil-drop), và điều này dẫn ông đến giải Nobel năm 1923. Millikan cũng được trao giải cho những công trình về hiệu ứng quang điện.
Vào đầu thế kỉ 20, các phương trình của Maxwell đã có mặt được vài chục thập kỉ, nhưng rất nhiều câu hỏi vẫn chưa được giải đáp: môi trường nào là môi trường trung gian dẫn chuyền sóng điện từ (trong đó có cả ánh sáng) và các hạt tải điện có phải là nguyên nhân của sự phát xạ ánh sáng hay không? Albert A. Michelson đã phát triển một phương pháp giao thoa, theo phương pháp này thì khoảng cách giữa hai vật thể có thể được đo bằng số các bước sóng ánh sáng (hoặc là những phần nhỏ của chúng). Điều này làm cho việc xác định chiều dài chính xác hơn trước đó rất nhiều. Rất nhiều năm sau, Văn phòng đo lường quốc tế (Bureau International de Poids et Mesures) ở Paris đã định nghĩa đơn vị mét trên cơ sở số các bước sóng của một bức xạ đặc biệt thay cho định nghĩa trước đây là chiều dài của một tấm platin. Dùng chiếc giao thoa kế đó, Michelson và W. Morley đã tiến hành thí một nghiệm nổi tiếng, thí nghiệm đó kết luận rằng vận tốc của ánh sáng không phụ thuộc vào chuyển động tương đối của nguồn sáng và người quan sát. Thí nghiệm này bác bỏ giả thuyết trước đó coi ê-te (ether) là môi trường truyền ánh sáng. Michelson nhận giải thưởng Nobel năm 1907.
Các cơ chế phát xạ ánh sáng bởi các hạt tải điện đã được Hendrik A. Lorentz nghiên cứu. Ông cũng là người đầu tiên áp dụng các phương trình của Maxwell vào việc dẫn điện trong vật chất. Lý thuyết của ông có thể được áp dụng vào bức xạ gây ra bởi dao động giữa các nguyên tử, và vào bối cảnh đó, lý tuyết có thể giải thích một thí nghiệm cực kì quan trọng. Vào năm 1896, Pieter Zeeman khi nghiên cứu về các hiệu ứng điện từ của ánh sáng đã tìm ra một hiện tượng quan trọng, đó là vạch phổ của Natri khi bị đốt cháy trong một từ trường mạnh bị tách thành nhiều vạch. Hiện tượng này có thể được giải thích rất chi tiết bằng lý thuyết của Lorentz khi lý thuyết này được áp dụng cho các dao động của các điện tử. Lorentz và Zeeman chia nhau giải Nobel năm 1902, thậm chí trước cả Thomson (phát hiện ra điện tử). Sau đó, Johannes Stark chứng minh ảnh hưởng trực tiếp của điện trường lên phát xạ ánh sáng nhờ việc phát ra một chùm các nguyên tử (chùm tia a-nốt gồm các nguyên tử hoặc phân tử) trong một điện trường mạnh. Ông đã quan sát được sự tách phức tạp của các vạch phổ cũng như dịch chuyển Doppler phụ thuộc và vận tốc của nguồn phát. Stark nhận giải Nobel năm 1919.Với bối cảnh đó, việc xây dựng một mô hình chi tiết của nguyên tử, một vấn đề đã tồn tại như một khái niệm từ thời cổ đại nhưng được coi là một thành phần không có cấu trúc trong vật lý cổ điển, có thể được thực hiện. Bắt đầu từ giữa thế kỉ 19, người ta đã có một tài liệu thực nghiệm đó là những vạch phổ đặc trưng phát ra trong những vùng có thể nhìn thấy được từ những loại nguyên tử khác nhau. Bức xạ tia X đặc trưng do Charles G. Barkla (Nobel 1917) phát hiện bổ sung thêm cho tài liệu đó. Barkla phát hiện điều đó sau khi Max von Laue (Nobel 1914) xác định bản chất sóng của bức xạ và nhiễu xạ tia X. Phát hiện của Laue trở thành một nguồn thông tin quan trọng về cấu trúc bên trong của nguyên tử.
Tia X đặc trưng của Barkla là những chùm tia thứ cấp, đặc trưng cho mỗi nguyên tố, phát bức xạ từ những ống phát tia X (nhưng không phụ thuộc vào công thức hóa học của mẫu). Karl Manne G. Siegbahn nhận thấy rằng đo phổ tia X đặc trưng của tất cả các nguyên tố sẽ cho biết một cách có hệ thống các lớp điện tử kế tiếp được thêm vào như thế nào khi đi từ các nguyên tố nhẹ tới các nguyên tố nặng. Ông đã thiết kế các máy đo quang phổ cực kì chính xác cho mục đích này. Và nhờ đó người ta xác định được sự khác nhau về năng lượng của các lớp điện tử khác nhau và các qui tắc cho việc dịch chuyển bức xạ giữa các lớp đó. Ông nhận giải Nobel vật lý năm 1924. Tuy vậy, hóa ra là để hiểu sâu hơn cấu trúc của nguyên tử, người ta cần nhiều hơn rất nhiều những khái niệm thông thường của vật lý cổ điển mà khó ai có thể tưởng tượng nổi.
Vật lý cổ điển coi chuyển động là liên tục cũng như việc trao đổi năng lượng cũng là liên tục. Vậy thì tại sao các nguyên tử lại phát ra những bức xạ có một đỉnh cực đại? Ở đây, một vấn đề có nguồn gốc từ cuối thế kỉ thứ 19 đã cho những đầu mối quan trọng để giải thích thắc mắc trên. Wilhelm Wien nghiên cứu về bức xạ của “vật đen” (black-body) từ những vật rắn nóng (tương phản với bức xạ của các nguyên tử khí có phân bố tần số liên tục). Sử dụng điện động học cổ điển (classical electrodynamics), ông đi tới một biểu thức cho phân bố tần số của bức xạ này và cho sự dịch chuyển của bước sóng có cường độ cực đại khi nhiệt độ của một vật đen bị thay đổi (định luật dịch chuyển Wien, rất hiệu quả trong việc xác định nhiệt độ của mặt trời chẳng hạn). Ông được trao giải Nobel năm 1911.

Hình1: (từ trái) Rongent (1845-1923), Thomson(1856-1940), Bohr(1885-1962), và Planck(1858-1947)         

Tuy vậy, Wien không thể rút ra một công thức phân bố phù hợp với thực nghiệm cho cả hai vùng bước sóng dài và bước sóng ngắn. Vấn đề đó vẫn không được giải quyết cho đến khi Max K. E. L. Planck đưa ra một ý tưởng hoàn toàn mới là năng lượng phát xạ chỉ phát ra từng lượng gián đoạn, có một giá trị nhất định gọi là lượng tử (quanta). Một lượng tử năng lượng có giá trị lớn khi bước sóng nhỏ và có giá trị nhỏ khi bước sóng lớn (lượng tử năng lượng bằng hằng số Plank nhân với tần số của lượng tử đó). Đây được coi là sự ra đời của vật lý lượng tử. Wien nhận giả Nobel năm 1911 và Plank nhận ít năm sau đó, vào năm 1918. Các bằng chứng quan trọng chứng minh ánh sáng phát ra theo từng lượng tử năng lượng cũng được củng cố bằng lời giải thích của Albert Eistein về hiệu ứng quang điện (được Hetz quan sát lần đầu tiên vào năm 1887). Hiệu ứng quang điện bao gồm phần mở rộng của lý thuyết Plank. Einstein nhận giải Nobel vật lý năm 1921 (trao giải năm 1922) về hiệu ứng quang điện và về “những đóng góp cho vật lý lý thuyết” (điều đó ám chỉ một bối cảnh khác).
Trong các thí nghiệm sau này, James Franck và Gustav L. Hertz đã chứng minh hiệu ứng quang điện ngược (inverse of the photoelectric effect, tức là khi một điện tử va chạm với một nguyên tử thì cần một năng lượng tối thiểu để sinh ra các lượng tử ánh sáng với năng lượng đặc trưng phát ra từ va chạm đó) và chứng minh tính đúng đắn của lý thuyết Plank và hằng số Plank. Franck và Hertz cùng nhận giải Nobel năm 1926. Cũng vào khoảng thời gian đó, Arthur H. Compton (người nhận nửa giải Nobel vật lý năm 1927) nguyên cứu sự mất mát năng lượng của quang tử (photon, lượng tử sóng điện từ) tia X khi tán xạ lên các hạt vật chất và cho thấy rằng các lượng tử của chùm tia X có năng lượng lớn hơn năng lượng của ánh sáng nhìn thấy 10.000 lần và chúng cũng tuân theo các qui tắc lượng tử. Charles T. R. Wilson (xem dưới đây) nhận một nửa giải Nobel năm 1927 vì tạo ra dụng cụ quan sát tán xạ năng lượng cao có thể được dùng để chứng minh tiên đoán của Compton.
Với khái niệm cơ sở về lượng tử hóa năng lượng, tình hình vật lý đã thúc đẩy những cuộc phiêu lưu tiếp theo vào thế giới bí ẩn của vật lý vi mô. Cũng giống như một số nhà vật lý nổi tiếng trước đó, Niels H. D. Bohr làm việc với mô hình hành tinh nguyên tử trong đó các điện tử quay xung quanh hạt nhân. Ông thấy rằng các vạch phổ sắc nét phát ra từ các nguyên tử có thể được giải thích bằng cách cho rằng điện tử quay xung quanh hạt nhân trên các quĩ đạo tĩnh đặc trưng bởi một mô men góc bị lượng tử hóa (bằng một số nguyên lần hằng số Plank chia cho 2*pi). Ông cũng cho thấy năng lượng phát xạ chính bằng sự khác nhau giữa các trạng thái năng lượng bị lượng tử hóa đó. Giả thiết ông đưa ra có xuất phát điểm từ vật lý cổ điển hơn là từ lý thuyết của Plank. Mặc dầu giả thiết trên chỉ giải thích được một số đặc điểm đơn giản của quang phổ và nguồn gốc của nó nhưng người ta cũng sớm chấp nhận nó vì phương pháp của Bohr là một điểm khởi đầu đúng đắn, ông nhận giải Nobel năm 1922.
Hóa ra là muốn hiểu sâu hơn tính chất của bức xạ và vật chất (cho đến lúc bấy giờ người ta vẫn coi đó là hai thực thể hoàn toàn riêng biệt) người ta cần thêm những tiến bộ về mô tả lý thuyết của thế giới vi mô. Năm 1923, Louis-Victor P. R. de Broglie đã phát biểu rằng các hạt vật chất cũng có những tính chất sóng và sóng điện từ cũng thể hiện những tính chất của các hạt dưới dạng các quang tử. Ông đã phát triển các công thức toán học cho tính lưỡng tính này, trong đó có một công thức mà sau này gọi là “bước sóng de Broglie” cho các hạt chuyển động. Các thí nghiệm ban đầu của Clinton J. Davisson đã chỉ ra rằng thực ra các điện tử thể hiện tính chất phản xạ giống như các sóng khi đập vào một tinh thể và các thí nghiệm này được lặp lại nhiều lần chứng minh giả thiết lưỡng tính của de Broglie. Một thời gian sau George P. Thomson (con trai của J. J. Thomson) đã đưa ra nhiều thí nghiệm đã được cải tiến rất nhiều cho biết hiện tượng tán xạ khi các điện tử năng lượng cao đi sâu vào trong các tấm kim loại. De Broglie nhận giải Nobel năm 1929 và sau đó Davisson và Thomson chia nhau giải Nobel năm 1937.
Điều cần làm là phải đưa ra các phương trình toán học mô tả một lý thuyết mới thay thế cho cơ học cổ điển mà lý thuyết đó giải thích đúng đắn các hiện tượng ở qui mô nguyên tử và bức xạ của chúng. Từ năm 1924 đến 1926 là khoảng thời gian phát triển cao độ trong lĩnh vực này. Erwin Schrödinger phát triển thêm ý tưởng của de Broglie và viết một bài báo cơ bản về “Lượng tử hóa như là một bài toán trị riêng” vào đầu năm 1926. Ông đã tạo ra một cái gọi là “cơ học sóng” (wave mechanics). Nhưng một năm trước đó Werner K. Heisenberg đã bắt đầu một phương pháp toán học hoàn toán khác gọi là “cơ học ma trận” (matrix mechanics) và bằng cách đó ông cũng thu được các kết quả tương tự như các kết quả mà Schrödinger đưa ra sau đó. Cơ học lượng tử mới của Schrodinger và Heisenberg là một sự khởi đầu căn bản từ bức tranh cảm tính của các quĩ đạo cổ điển trong nguyên tử. Nó cũng ngụ ý rằng có những giới hạn tự nhiên trong việc xác định chính xác đồng thời các đại lượng vật lý (hệ thức bất định Heisenberg - Heisenberg's uncertainty relations).

Hình2:(từ trái) Lamb(1913- ), Kusch(1911-1993) Schrödinger(1887-1961), và Dirac(1902-1984)

Hết phần 2

Các nhà bác học vật lý

Heisenberg được trao giải Nobel năm 1932 cho việc phát triển cơ học lượng tử, trong khi đó Schrödinger và Paul A. M. Dirac cùng nhận giải vào năm sau đó. Cơ học lượng tử của Schrodinger và Heisenberg đúng đối với các vận tốc và năng lượng tương đối thấp của chuyển động “quĩ đạo” (orbital) của các điện tử hóa trị trong nguyên tử. Nhưng các phương trình đó không thỏa mãn các yêu cầu được xác định từ các nguyên lý của Eistein cho các hạt chuyển động nhanh. Dirac đã sửa đổi các công thức khi tính đến lý thuyết tương đối hẹp của Eistein và cho thấy rằng một lý thuyết như vậy không chỉ bao gồm những thông số tương ứng cho sự tự quay của điện tử xung quanh mình nó gọi là spin (do đó giải thích mô men từ nội tại của điện tử và cấu trúc tinh tế quan sát được trong phổ nguyên tử) mà còn tiên đoán sự tồn tại của một loại hạt hoàn toàn mới gọi là các phản hạt (antiparticles) có khối lượng bằng khối lượng của điện tử nhưng mang điện tích dương. Phản hạt đầu tiên của điện tử do Carl D. Anderson (được trao một nửa giải Nobel năm 1936) phát hiện năm 1932 được gọi là positron.Giải Nobel những năm sau đó được trao cho những người có đóng góp quan trọng khác cho sự phát triển của cơ học lượng tử. Max Born, thầy của Heisenberg vào những năm đầu của thập niên 20 có những công trình quan trọng về mô tả toán học và giải thích vật lý. Ông nhận một nửa giải nobel vào năm 1954 cho công trình của ông về ý nghĩa thống kê của hàm sóng. Wolfgang Pauli đã đưa ra nguyên lý loại trừ (exclusion principle – mỗi trạng thái lượng tử chỉ có thể có một điện tử mà thôi) dựa trên cơ sở lý thuyết bán cổ điển của Bohr. Sau này, người ta cũng thấy nguyên lý Pauli liên quan đến tính đối xứng của hàm sóng của các hạt có spin bán nguyên nói chung gọi là các hạt fermion để phân biệt với các hạt boson có spin là một số nguyên lần của hằng số Plank chia cho 2*pi. Nguyên lý loại trừ có nhiều hệ quả quan trọng trong nhiều lĩnh vực của vật lý và Pauli nhận giải Nobel năm 1945.
Việc nghiên cứu spin của điện tử tiếp tục mở ra những chân trời mới trong vật lý. Các phương pháp chính xác để xác định mô men từ của các hạt tự quay đã được phát triển vào những năm 30 và 40 cho nguyên tử và hạt nhân (do Stern, Rabi, Bloch và Purcell thực hiện, xem phần dưới). Năm 1947 họ đã đạt đến một độ chính xác mà Polykarp Kusch có thể phát biểu rằng mô men từ của một điện tử không có giá trị đúng như Dirac tiên đoán mà khác đi một đại lượng rất nhỏ. Vào cùng thời gian đó Willis E. Lamb cũng nghiên cứu một vấn đề tượng tự về spin của điện tử tương tác với các trường điện từ bằng việc nghiên cứu cấu trúc tinh tế (fine structure) của quang phổ phát ra từ nguyên tử Hidro với các phương pháp cộng hưởng tần số radio có độ phân giải rất cao. Ông quan sát thấy rằng sự tách cấu trúc tinh tế luôn luôn sai khác với giá trị của Dirac một lượng đáng kể. Các kết quả này làm cho người ta phải xem lại các khái niệm cơ bản đằng sau những ứng dụng lý thuyết lượng tử vào các hiện tượng điện từ, một lĩnh vực đã được Dirac, Heisenberg và Pauli khởi đầu nhưng vẫn còn một vài khiếm khuyết. Kusch và Lamb cùng nhận giải Nobel năm 1955.
Trong điện động học lượng tử (quantum electrodynamics – gọi tắt là DDHLT), lý thuyết nhiễu loạn lượng tử mô tả các hạt tích điện tương tác thông qua trao đổi các quang tử. Mô hình cũ của DDHLT chỉ bao gồm trao đổi quang tử riêng lẻ, nhưng Sin-Itiro Tomonaga, Julian Schwinger và Richard P. Feynman nhận ra rằng tình huống lại phức tạp hơn rất nhiều vì tán xạ điện tử-điện tử có thể bao gồm trao đổi một vài quang tử. Một điện tích điểm “trần trụi” không tồn tại trong bức tranh của họ. Điện tích luôn tạo ra một đám các cặp hạt-phản hạt ảo (virtual particle-antiparticle) ở xung quanh nó, do đó, mô men từ hiệu dụng của nó thay đổi và thế năng Coulomb cũng bị biến đổi tại các khoảng cách ngắn. Các tính toán từ mô hình này đã tái tạo lại các dữ liệu thực nghiệm của Kusch và Lamb với một độ chính xác ngạc nhiên và mô hình DDHLT mới được coi là một lý thuyết chính xác nhất đã từng có. Tomonaga, Schwinger và Feynman cùng nhận giải Nobel vật lý năm 1965.
Bước phát triển này của DDHLT có một tầm quan trọng vĩ đại nhất trong việc mô tả các hiện tượng vật lý năng lượng cao. Khái niệm sinh cặp từ trạng thái chân không của một trường lượng tử (quantized field) là một khái niệm cơ sở trong lý thuyết trường hiện đại của các tương tác mạnh và của sắc động học lượng tử (quantum chromodynamics).
Khía cạnh cơ bản khác của cơ học lượng tử và lý thuyết trường lượng tử là tính đối xứng của các hàm sóng và các trường. Các tính chất đối xứng tương ứng với trao đổi hạt đồng nhất thì dựa trên nguyên lý loại trừ Pauli nói ở trên, nhưng các đối xứng tương ứng với các biến đổi không gian cũng trở nên quan trọng không kém. Năm 1956, Lý Chính Đạo (Tsung-Dao Lee) và Dương Chấn Ninh (Chen Ning Yang) đã chỉ ra rằng các tương tác vật lý có thể không tuân theo đối xứng gương (tức là, chúng có thể khác nhau khi hệ tọa độ quay trái hoặc quay phải). Điều này có nghĩa là tính chất “chẵn lẻ” của hàm sóng, kí hiệu là “P” không được bảo toàn khi hệ chịu một tương tác như vậy và tính chất đối xứng gương có thể bị thay đổi. Công trình của hai ông là điểm khởi đầu cho một nghiên cứu chuyên sâu về các hiệu ứng như vậy và ngay sau đó người ta thấy rằng phân rã của hạt betta và pi thành hạt muy do tương tác yếu gây ra không bảo toàn tính chẵn lẻ (xem thêm phần dưới). Lý và Dương cùng nhận giải Nobel năm 1957. (*Bổ sung: các định luật bảo toàn đều được rút ra từ các tính chất đối xứng. Tính đối xứng và đồng nhất của không gian và thời gian làm cho năng lượng, xung lượng, mô men xung lượng được bảo toàn. Do đó, tính đối xứng và bảo toàn liên hệ chặt chẽ – ND*)
Các tính chất đối xứng khác của cơ học lượng tử có liên hệ với sự thay thế của các hạt bằng các phản hạt (gọi là giao hoán điện tích – charge conjugation, kí hiệu là “C”). Trong các trường hợp chuyển đổi phóng xạ mà Lý và Dương nghiên cứu, người ta thấy rằng mặc dù tính chẵn lẻ không được bảo toàn, nhưng vẫn tồn tại một đối xứng trong đó các hạt và phản hạt phá vỡ tính chẵn lẻ theo các cách trái ngược nhau hoàn toàn và do đó toán tử tổ hợp C*P bảo toàn tính đối xứng. Nhưng nguyên lý bảo toàn C*P đó kéo dài không được bao lâu cho đến khi James W. Cronin và Val L. Fitch phát hiện sự phân rã của hạt “meson K” vi phạm nguyên lý trên, mặc dù sự vi phạm đó trong một qui mô rất nhỏ. Cronin và Fitch đưa ra phát hiện này vào năm 1964 và họ cùng nhau nhận giải Nobel năm 1980. Hệ quả của phát hiện trên (bao gồm các câu hỏi về tính đối xứng của các quá trình tự nhiên khi đảo ngược thời gian – gọi là đối xứng T) vẫn được thảo luận cho đến ngày nay và đã chạm đến những nền tảng sâu nhất của vật lý lý thuyết bởi vì đối xứng P*C*T luôn được coi là bảo toàn.
Người ta biết rằng trường điện từ có tính chất gọi là “đối xứng chuẩn” (gauge symmetry), tức là các phương trình trường giữ nguyên dạng ngay cả khi các thế năng điện từ được nhân lên với các hằng số pha cơ học lượng tử nhất định. Người ta không biết tương tác yếu (weak interaction) có tính chất như thế cho đến những năm 1960, khi Sheldon L. Glashow, Abdus Salam, và Steven Weinberg đưa ra lý thuyết thống nhất tương tác yếu và tương tác điện từ. Họ cùng nhau chia giải Nobel năm 1979 về lý thuyết thống nhất này và đặc biệt là tiên đoán của họ về một loại tương tác yếu đặc biệt được điều hòa bởi “dòng neutron – neutron current” đã được thực nghiệm kiểm chứng mới gần đây. Giải Nobel vật lý cuối cùng của thế kỉ 20 được trao cho Gerhardus 't Hooft và Martinus J. G. Veltman. Họ đã tìm ra cách để tái chuẩn hóa lý thuyết “điện-yếu” (electro-weak), và loại bỏ các điểm kì dị trong các tính toán lượng tử (giống như DDHLT đã giải quyết bài toán với tương tác Coulomb). Công trình của họ cho phép tính toán chi tiết đóng góp của tương tác yếu vào tương tác của các hạt nói chung, chứng minh tính hiệu quả của các lý thuyết dựa trên bất biến chuẩn cho tất cả các tương tác vật lý cơ bản.
Hết phần 3
Cơ học lượng tử và phần mở rộng của nó là lý thuyết trường lượng tử là một trong những thành tựu vĩ đại của thế kỉ 20. Bản phác thảo con đường từ vật lý cổ điển đến vật lý hiện đại đã dẫn chúng ta đi được một chặng đường dài đến một bức tranh cơ bản và thống nhất về các hạt và các lực trong tự nhiên. Nhưng vẫn còn rất nhiều việc phải làm và cái đích vẫn còn ở xa phía trước. Ví dụ còn phải thống nhất lực điện-yếu với lực hạt nhân “mạnh” và với lực hấp dẫn. Nhưng ở đây, người ta nhận thấy rằng mô tả lượng tử của thế giới vi mô có một ứng dụng cơ bản khác: đó là tính toán các tính chất hóa học của các hệ phân tử (đôi lúc được mở rộng cho sinh học phân tử) và của cấu trúc chất rắn, những ngành mà đã thu được một số giải Nobel về vật lý và hóa học.Từ thế giới vi mô đến thế giới vĩ mô
Phần trước “Từ vật lý cổ điến đến vật lý lượng tử” đã đưa chúng ta đi từ các hiện tượng của thế giới vĩ mô mà chúng ta gặp hàng ngày tới thế giới lượng tử của các nguyên tử, điện tử và hạt nhân. Bắt đầu từ nguyên tử, các công trình của những người đạt giải Nobel đã cho chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn thế giới hạ nguyên tử (subatomic) và các thành phần nhỏ bé của nó.
Chúng ta cũng nhận thấy rằng, chỉ trong nửa đầu thế kỉ 20, khám phá tính chất của thế giới vi mô của các hạt và tương tác mới là cần thiết để hiểu lịch sử cấu thành và tiến hóa của những cấu trúc lớn hơn của vũ trụ - thế giới vĩ mô. Tại thời điểm hiện tại, vật lý, vật lý thiên văn và vũ trụ học liên hệ với nhau rất chặt chẽ, dưới đây sẽ trình bày một vài ví dụ.
Một mối liên hệ khác liên kết các thực thể nhỏ nhất và lớn nhất trong vũ trụ của chúng ta là lý thuyết tương đối của Albert Einstein. Einstein đưa ra lý thuyết tương đối hẹp của mình lần đầu tiên vào năm 1905 (special theory of relativity) với phương trình cho biết mối liên hệ giữa khối lượng và năng lượng E=mc2. Và vào thập kỉ tiếp theo, ông tiếp tục đưa ra lý thuyết tương đối rộng (general theory of relativity) liên hệ lực hấp dẫn với cấu trúc của không gian và thời gian. Tất cả các tính toán khối lượng hiệu dụng của các hạt năng lượng cao, của các biến đổi năng lượng trong phân rã phóng xạ cũng như các tiên đoán của Dirac về sự tồn tại của phản hạt, đều dựa trên lý thuyết tương đối của ông. Lý thuyết tương đối rộng là cơ sở cho các tính toán chuyển động trên thang vĩ mô của vũ trụ, kể cả giả thiết về tính chất của hố đen. Eistein nhận giải Nobel vào năm 1922 lại do công trình về hiệu ứng quang điện thể hiện bản chất hạt của ánh sáng. (*Có lẽ ủy ban trao giải thưởng đã quá thận trọng khi không trao giải Nobel cho ông về lý thuyết tương đối. Họ sợ rằng, một lý thuyết quan trọng như vậy, nếu sai có thể để lại một hậu quả rất lớn, chính vì thế Eistein được trao giải vì hiệu ứng quang điện, một vấn đề kém quan trọng hơn nhiều so với thuyết tương đối - ND*).
Các nghiên cứu của Becquerel, vợ chồng Curie và Rutherford làn nảy sinh các câu hỏi: đâu là nguồn năng lượng của hạt nhân phóng xạ để có thể duy trì việc phát xạ anpha, betha và gamma trong khoảng thời gian rất dài mà một vài người trong số họ đã quan sát được? hạt anpha là gì và hạt nhân có tạo thành từ hạt này hay không? Câu hỏi đầu tiên (có vẻ như là vi phạm định luật bảo toàn năng lượng, một trong những định luật quan trọng nhất của vật lý) đã có câu trả lời từ lý thuyết biến tố (transmutation theory) của Rutherford và Frederick Soddy (Nobel hóa học 1921). Họ đã theo dõi rất chi tiết một chuỗi các phân rã phóng xạ khác nhau và so sánh năng lượng phát ra với sự thay đổi về khối lượng của hạt nhân mẹ và hạt nhân con. Họ tìm thấy rằng hạt nhân thuộc một nguyên tố hóa học có thể có các khối lượng khác nhau gọi là các “đồng vị” (isotope). Một giải Nobel cũng được trao vào năm 1922 cho Francis W. Aston về việc tách phổ-khối lượng (mass-spectroscopic) của một số lớn các đồng vị của các nguyên tố không phóng xạ. Cùng lúc đó Marie Curie cũng nhận giải Nobel lần thứ hai (lần này về hóa học) về phát hiện ra các nguyên tố hóa học radium và polonium.
Khối lượng của các đồng vị đều là một số nguyên lần khối lượng của proton, proton do Rutherford phát hiện lần đầu tiên khi ông chiếu tia anpha và hạt nhận nguyên tử Ni-tơ. Nhưng các đồng vị không thể chỉ được tạo thành từ các proton được vì mỗi nguyên tố hóa học chỉ có một giá trị tổng điện tích hạt nhân. Thông thường các proton chỉ chiếm không đến một nửa khối lượng hạt nhân, điều đó có nghĩa là một số thành phần không mang điện cũng có mặt trong hạt nhân. James Chadwick lần đầu tiên tìm thấy chứng cứ cho hạt đó, gọi là hạt neutron khi ông nghiên cứu các phản ứng hạt nhân năm 1932. Ông nhận giải Noebel vật lý năm 1935.
Ngay sau phát hiện của Chadwick, Enrico Fermi và một số người khác cũng bắt tay vào nghiên cứu neutron như là một phương pháp để tạo ra các phản ứng hạt nhân mà có thể gây ra phóng xạ “nhân tạo”. Fermi thấy rằng xác suất của các phản ứng cảm ứng-hạt nhân (neutron-induced reactions, không bao gồm biến đổi nguyên tố) tăng lên khi neutron bị làm chậm đi và điều này cũng đúng cho các nguyên tố nặng giống như với các nguyên tố nhẹ, trái ngược với phản ứng cảm ứng các hạt mang điện (*ví dụ như proton*). Ông nhận giải Nobel vật lý năm 1938.
Một nhánh của vật lý gọi là “vật lý hạt nhân” đã được hình thành dựa trên giả thiết hạt nhân được tạo thành từ các proton và neutron và một vài thành tựu quan trọng đã được ghi nhận bằng các giải Nobel. Ernest O. Lawrence, người nhận giải Nobel vật lý năm 1939 đã xây máy gia tốc đầu tiên trong đó các hạt được gia tốc dần dần bằng việc gia tăng năng lượng cho hạt sau mỗi vòng quay trong từ trường. Bằng các máy gia tốc này ông có thể gia tốc các hạt nhân tới các năng lượng cao mà ở đó các phản ứng hạt nhân có thể xảy ra và ông đã thu được kết quả mới rất quan trọng. Ngài John D. Cockcroft và Ernest T. S. Walton đã gia tốc các hạt bằng việc tác động trực tiếp một điện thế rất cao và các ông cũng được trao giải vào năm 1951 cho công trình nghiên cứu về biến tố (*nguyên tố mẹ biến đổi thành nguyên tố con thông qua phóng xạ*).
Otto Stern nhận giải Nobel vật lý năm 1943 cho các phương pháp thực nghiệm của ông để nghiên cứu tính chất từ của hạt nhân, đặc biệt là xác định mô men từ của proton. Isidor I. Rabi làm tăng độ chính xác lên hai bậc trong việc xác định mô men từ vủa hạt nhân bằng kĩ thuật cộng hưởng tần số radio, và do đó, ông nhận giải Nobel vật lý năm 1944. Các tính chất từ của hạt nhân cung cấp các thông tin quan trọng để hiểu chi tiết proton và neutron tạo nên hạt nhân như thế nào. Sau đó, vào nửa cuối của thế kỉ một vài nhà vật lý lý thuyết được trao giải cho những công trình về mô hình hóa lý thuyết các hệ nhiều hạt như vậy: Eugene P. Wigner (nửa giải), Maria Goeppert-Mayer (một phần tư) and J. Hans D. Jensen (một phần tư) vào năm 1963 và Aage N. Bohr, Ben R. Mottelson và L. James Rainwater vào năm 1975. Chúng ta sẽ trở lại những công trình này trong phần “Từ đơn giản đến phức tạp”.
Ngay từ năm 1912 Victor F. Hess (giải Nobel năm 1936 cù
1/ Thomas Alva Edison : Sứ giả ánh sáng của nhân loại.

Năm sinh - Năm mất: ngày 11/2/1847 - 18/10/1931
Quê hương: thị trấn Milan, bang Ohio, Mỹ.
Danh ngôn: Thiên tài chỉ có 1% bẩm sinh, còn 99% là sự nỗ lực.
Thông tin: http://vi.wikipedia.org/wiki/Thomas_Edison

2/ Alfred Nobel : Ông tổ của thuốc súng và giải thưởng vì hòa bình.

Năm sinh - Năm mất: ngày 21/10/1833 - 1896
Quê hương: thủ đô Stockholm, Thụy Điển.
Danh ngôn: Tôi là công dân của thế giới, được sinh ra vì nhân loại.
Thông tin: http://vi.wikipedia.org/wiki/Alfred_Nobel

3/ Napoleon Bonaparte : Nhân vật kiệt xuất càn quét Châu Âu.

Năm sinh - Năm mất: ngày 15/8/1769 - ngày 5/5/1821.
Quê hương: đảo Corsica, miền Nam nước Pháp.
Danh ngôn: Tài năng xuất chúng nếu không có cơ hội sẽ tự mất đi giá trị.
Thông tin: http://vi.wikipedia.org/wiki/Napol%C3%A9on_Bonaparte#Danh_ng.C3.B4n

4/ Peter Đại Đế : Vị Sa Hoàng Nga với chí khí hào hùng.

Năm sinh - Năm mất: ngày 30/5/1672 - ngày 8/2/1725.
Quê hương: thành phố Moscow, nước Nga.
Danh ngôn: hãy cho tôi 20 năm, đổi lại tôi sẽ cho bạn 1 nước Nga kỳ tích.
Thông tin: http://vi.wikipedia.org/wiki/Pyotr_I_c%E1%BB%A7a_Nga

5/ Isaac Newton : Thiên tài khoa học dưới gốc táo.

Năm sinh - Năm mất: ngày 4/1/1643 - ngày 20/3/1727.
Quê hương: Woolsthorpe, nước Anh.
Danh ngôn: Thành tựu của tôi là nhờ suy nghĩ.
2/avatars/13142-80.png" alt="" />