habentre
Long Thới - Chợ Lách - BếnTre
  • Trang chủ
    • Quê tôi trên bản đồ
  • Hình ảnh
    • Ảnh lưu niệm
    • 12A 1986
    • Quê Ngoại >
      • Quê Ngoại 2
      • Thăm mộ
      • Họp mặt 12P 1992
    • Ảnh động
    • Ảnh động Giáng sinh
    • Nghệ thuật
    • Hội họa
    • Thắng cảnh Việt Nam
    • Thắng cảnh Thế giới
    • Ảnh Bác Hồ
    • Ảnh xưa
    • Ảnh flash
  • Trang
    • Giáo viên
    • Học sinh
    • Lịch sử Việt Nam
    • Địa chí các tỉnh VN
    • Tiếng Pháp
    • Tuyển tập thơ hay
    • Văn học-Thơ ca
    • Truyện cổ tích
    • Ca dao-tục ngữ
    • Quà tăng cuộc sống
    • Cuộc sống muôn màu
    • Bạn yêu Guitare
    • Cây cảnh
    • Web hay
  • Tiện ích
    • Từ điển
    • Dịch tự động
    • Sức khỏe & Đời sống
    • Cây thuốc
    • Gia chánh
    • Mẹo vặt
    • Giúp bé vui học
    • Kho tiện ích
    • Tạo logo
    • Thủ thuật
    • Thiết kế web
    • Code cho web
  • Download
    • Phần mềm tiện ích
    • Phần mềm học tập
    • ebook
    • Tài liệu tổng hợp
    • Kho Slideshow
    • Nhạc Pháp
    • Nhạc vàng
    • Nhạc bản
    • Nhạc chuông ĐTDĐ
  • Giải trí
    • Xem phim
    • Xem Tivi trong nước
    • Xem Tivi nước ngoài
    • Tổng hợp
    • Thư giãn >
      • Định Nghĩa Vui
      • Thơ vui
      • Vui cười
      • Đọc Cho Biết
      • Nghe kể chuyện
      • Bói toán
    • Games
    • Karaoké
  • Âm Nhạc
    • Nhạc tổng hợp
    • Nhạc vàng
    • Nhạc Pháp
    • Nhạc nước ngoài
    • Nhạc thiếu nhi
    • Nhạc đám cưới
    • Nhạc không lời
    • Nhạc tân cổ
    • Nhạc flash
    • Giao hưởng
  • Danh nhân
    • Toán học
    • Vật lý
    • Hóa học
    • Y học
    • Văn học
    • Albert einstein
    • Thomas Edison
  • Sưu tầm
    • Flash hay
    • Tiền các nước
    • Top 10 thế giới
    • Tài liệu chữa bệnh
    • Thư pháp
    • Làm đẹp
    • Bonsai đẹp
    • Hoa >
      • Các loài hoa hiếm
      • Hộp thư
      • Hoa đá
      • Hoa Mai-Hoa Đào
      • Hoa Lài - Hoa Cúc
    • Hang động đẹp
    • Cây lạ
    • Vật trhông minh nhất
  • Liên hệ
    • Diễn đàn
  • Lớp
    • 12A 1989
Bây giờ là:

Lịch sử Việt Nam

Chào Cờ Tổ quốc

Bấm vào nút play để kéo cờ

Tra cứu






Bấm xem các trận đánh lớn trong lịch sử việt nam
         Sơ lược lịch sử Việt Nam

Cách đây khoảng 4.000 năm, ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, thủ lĩnh bộ lạc Văn Lang đã dựng nước Văn Lang, ông tự xưng Vua- gọi là Hùng Vương, kinh đô đóng ở Phong Châu (Phú Thọ). Nước Văn Lang tồn tại 2.621 năm và truyền được 18 đời vua.

Vào thế kỷ thứ III trước Công nguyên, Thủ lĩnh bộ lạc Âu Việt (sinh sống chủ yếu ở Việt Bắc) đã sát nhập với Văn Lang lập ra nước Âu Việt. Ông xưng Vua lấy hiệu An Dương Vương và dời đô từ Phong Châu về Phong Khuê ( Đông Anh- Hà Nội). Nước Âu Lạc tồn tại được 50 năm thị bọn phong kiến phương Bắc xâm lược (quân Triệu Đà và sau đó là nhà Trần) và cai trị suốt 246 năm ( 207 trước Công Nguyên- 39), sử gọi là thời kỳ Bắc thuộc lần thứ I.

Tháng 3 năm 40, Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị đã phát động khởi nghĩa ở Mê Linh, nhân dân theo Hai Bà rất đông. Trong thời gian ngắn đã đánh đuổi bọn cai trị đứng đầu là Tô Định. Đất nước được độc lập, Trưng Trắc được suy tôn làm Vua ( Trưng Vương). Sau nhà Hán cử Mã Viện sang xâm lược. Hai Bà bị thất bại phải nhảy xuống sông Hát tự vẫn ( 5/43). Đất nước ta bị bọn phong kiến phương Bắc cai trị suốt 501 năm ( 43- 544), sử gọi là thời kỳ Bắc thuộc lần thứ II. Trong thời kỳ này, năm 248, Bà Triệu quê ở Thanh Hóa đã nổi dậy khởi nghĩa làm cho bọn đô hộ hoảng sợ phải tập trung lực lượng để đối phó; sau Bà chết ở núi Tùng, khởi nghĩa thất bại.

Mùa xuân năm 542, Lý Bí quê ở Thái Bình đã phát động khởi nghĩa, quét sạch được bọn phong kiến phương Bắc đô hộ giành lại độc lập cho Tổ quốc. Năm 544 Ông tuyên bố dựng nước Vạn Xuân, lên ngôi hoàng đế và tự xưng là Nam Đế, đóng đô ở Long Biên. Sau đó Triệu Quang Phục (Triệu Việt Vương) tiếp tục xây dựng nước Vạn Xuân.

Năm 603, phong kiến Phương Bắc (nhà Tùy) lại xâm lược và cai trị nước ta suốt 336 năm (603 - 939), sử gọi là thời kỳ bắc thuộc lần thứ III.

Năm 938, Ngô Quyền quê ở Đường Lâm (Hà Tây) đã lãnh đạo nhân dân ta đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Với chiến thắng này đã kết thúc hoàn toàn thời kỳ mất nước kéo dài hơn 1000 năm. Một thời kỳ độc lập lâu dài của dân tộc bắt đầu. Năm 944, sau khi Ngô Quyền mất thì xảy ra loại 12 sứ quân. Đến năm 968, Đinh Bộ Lĩnh quê ở Hoa Lư (Ninh Bình) dẹp được loạn 12 sứ quân thống nhất lại đất nước, lập ta triều đại nhà Đinh, ông lên ngôi hoàng đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.

Năm 979, Đinh Tiên Hoàng chết, triều đình đã suy tôn thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên làm vua, lập ra triều đại Tiền Lê. Trong thời kỳ này có cuộc kháng chiến chống quân phong kiến phương Bắc xâm lược (nhà Tống) thắng lợi.

Năm 1009, sau khi Lê Long Đỉnh chết, triều đình đã suy tôn 1 võ tướng cao cấp là Lý Công Uẩn, người làng Cổ Tháp (Hà Bắc) lên làm vua, lập ra triều đại nhà Lý. Năm 1010 Lý Thái Tổ đã dời đô từ Hoa Lư về Đại La và đổi tên là Thăng Long, đặt tên nước là Đại Việt. Nhà Lý tồn tại 215 năm (1010 - 1225), truyền được 9 đời vua. Trong thời kỳ này, năm 1077 Lý Thường Kiệt đã đánh thắng quân Tống xâm lược Sông Cầu, nền độc lập nước ta được giữ vững.

Năm 1226, do sự bố trí của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng đã nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh. Trần Cảnh lên ngôi Hoàng Đế, lập ra triều đại nhà Trần. Nhà Trần tồn tại 175 năm (1226- 1400), truyền được 13 đời vua, vẫn cứ lấy tên nước là Đại Việt kinh đô là Thăng Long.

Thời Trần, nhân dân ta đã ba lần chiến thắng quân Nguyên- Mông xâm lược: lần thứ nhất năm 1258, lần thứ II năm 1285, lần thứ III năm 1287.

Từ cuối thế kỷ XIV, triều Trần suy vong, phong trào nông dân khởi nghĩa bùng nổ khắp nơi. Trước tình hình đó, Hồ Quý Ly- một quý tộc trong triều đã ép vua Trần nhường ngôi cho mình để lập ra triều Hồ. Hồ Quý Ly, lên ngôi Hoàng đế- đặt tên nước là Đại Ngu (đóng đô ở Tây Đô- Thanh hóa). Sau đó bọn phong kiến Phương Bắc (nhà Minh) lại kéo 20 vạn quân xâm lược nước ta. Hồ Qúy Ly bị bắt và bị giải về Trung Quốc. Nhân dân ta không chịu khuất phục, năm 1416 đã theo Lê Lợi làm cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Lê Lợi lập ra triều đại nhà Lê. Nhà Lê tồn tại 99 năm (1428- 1527), truyền được 11 đời vua, đặt tên nước là Đại Việt, kinh đô là Thăng Long nhưng đổi tên là Đông Đô.

Năm 1527, Mạc Đăng Dung- một võ quan triều Lê đã cướp ngôi, lập ra triều nhà Mạc, nhưng nhiều cựu thần nhà Lê không chịu thuần phục và nổi dậy khắp nơi. Năm 1533, Nguyễn Kim đã tìm dòng dõi nhà Lê tôn lên làm Vua, lập ra nhà Hậu Lê. Nhà Hậu Lê tồn tại được 255 năm (1533- 1789), truyền được 17 đời Vua. Nhưng Vua chỉ bù nhìn, quyền hành trong tay Nguyễn Kim, khi Nguyễn Kim chết, quyền hành rơi vào tay con rễ là Trịnh Kiểm. Con trai của Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng đã vào phía nam tập hợp lực lượng, đến năm 1627 thì không thuần phục họ Trịnh nữa, vì vậy xảy ra cuộc chiến tranh Trịnh- Nguyễn. Kết quả không tiêu diệt được nhau, họ Trịnh- Nguyễn chia cắt đất nước thành hai miền, lấy sông Gianh làm giới tuyến. Tình trạng này kéo dài hàng trăm năm.

Năm 1771 ba anh em: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ đã phát động cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Năm 1783 tiêu diệt được tập đoàn họ Nguyễn ở đàng trong; năm 1788 lật đổ được tập đoàn họ Trịnh nhà hậu Lê ở đàng ngoài. Đất nước trở lại thống nhất. Khi triều đại Tây Sơn mới thành lập, tháng 11 năm 1788 nhà mãn Thanh đã sai Tôn Sĩ Nghị dẫn 20 vạn quân sang xâm lược nước ta. Ngày 22/12/1788 Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung và lập tức kéo quân thần tốc ra Bắc tiêu diệt quân Thanh. Ngày 30/01/1789 Quang Trung đã tiêu diệt quân địch ở Ngọc Hồi, Khương Thượng rồi tiến vào thành Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị hoảng hốt kéo quân ra sông Hồng, Khương Thượng rồi tiến vào thành Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị hoảng hốt kéo quân ra Sông Hồng, tháo chạy thục mạng về nước. Cuộc xâm lược của Mãn Thanh bị đập tan. Triều đại Tây Sơn tồn tại 14 năm, truyền được 13 đời vua, đóng đô ở Phú Xuân (Huê).

Trong khi Quang Trung tiến hành xây dựng lại đất nước thì con cháu nhà Nguyễn là Nguyễn Ánh đã cầu viện nước Pháp chống lại nhà Tây Sơn. Đến năm 1802 thì lật đổ nhà Tây Sơn và lập ra triều đại nhà Nguyễn. Nhà Nguyễn tồn tại 143 năm (1802- 1945), truyền 13 đời vua, đóng đô ở Phú Xuân nhưng đổi tên là Huế, đặt tên nước là Việt Nam.

Ngày 1/9/1858 thực dân pháp bắt đầu xâm lược nước ta, đến năm 1884 chúng chiếm xong nước ta. Ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nổi dậy đấu tranh, làm nên cuộc cách mạng tháng Tám thành công năm 1945, kết thúc hơn 80 năm nô lệ cho thực dân Pháp.

Ngày 02/9/1945 Bác Hồ đã đọc bản tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình lịch sử, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhưng thực dân Pháp đã quay lại xâm lược nước ta lần nữa. Nhân dân Việt Nam nghe theo tiếng gọi của Đảng và Bác Hồ kiên trì đấu tranh trong cuộc kháng chiến 9 năm (1945 - 1954), từ ngày 18/3 đến 07/5/1954 quân và dân ta đã giành thắng lợi to lớn ở Điện Biên phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch, bắt sống Tướng Đờ Cáttơri, buộc thực dân Pháp phải ký hiệp định Genève về Đông Dương. Hòa bình lập lại nhưng nước ta còn tạm thời chia cắt hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến. Nhân dân miền Nam kiên trì đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ và tay sai. Nhân dân miền Bắc đã đánh tan chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ. Tháng 3/1975, từ chiến thắng ở Ban Mê Thuột ở Tây Nguyên đến các chiến thắng ở các tỉnh miền Trung và Nam bộ, ngày 30/4/1975, quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng đã chiếm dinh Độc Lập, giải phóng Sài Gòn, kết thúc chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giành được thắng lợi cuối cùng, quét sạch lũ cướp nước và bán nước ra khỏi bờ cõi, đất nước thống nhất.

Năm 1976, Quốc hội đã đổi tên nước ta thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiện nay nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đang vững bước trên con đường đổi mới với mục tiên “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”.


Quốc hiệu Việt nam qua các thời kỳ lịch sử

Từ đầu thời đại đồng thau, các bộ lạc người Việt đã định cư chắc chắn ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Bấy giờ có khoảng 15 bộ lạc Lạc Việt sống chủ yếu ở miền trung du và đồng bằng Bắc Bộ, hàng chục bộ lạc Âu Việt sống chủ yếu ở miền Việt Bắc. Tại nhiều nơi, người Lạc Việt và người Âu Việt sống xen kẽ với nhau, bên cạnh các thành phần dân cư khác.

Do nhu cầu trị thuỷ, nhu cầu chống ngoại xâm và do việc trao đổi kinh tế, văn hoá ngày càng gia tăng, các bộ lạc sinh sống gần gũi nhau có xu hướng tập hợp và thống nhất lại. Trong số các bộ lạc Lạc Việt, bộ lạc Văn Lang hùng mạnh hơn cả. Thủ lĩnh bộ lạc này là người đứng ra thống nhất tất cả các bộ lạc Lạc Việt, dựng lên nước.

 

XÍCH QUỶ: Thời Kinh Dương Vương vào năm 2879 TCN

 

VĂN LANG - Tồn tại 2671 năm (2876 trước CN - 258 trước CN):

Văn Lang, tự xưng là vua - mà sử cũ gọi là Hùng Vương và con cháu ông nhiều đời về sau vẫn nối truyền danh hiệu đó.

Căn cứ vào các tài liệu sử học, có thể tạm xác định địa bàn nước Văn Lang tương ứng với vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nước ta hiện nay cùng với một phần phía nam Quảng Ðông, Quảng Tây (Trung Quốc).

 

ÂU LẠC - Tồn tại 50 năm (257 trước CN - 207 trước CN):

Năm 221 TCN, Tần Thuỷ Hoàng cho quân xâm lược đất của toàn bộ các nhóm người Việt. Thục Phán - thủ lĩnh liên minh các bộ lạc Âu Việt - được tôn làm người lãnh đạo cuộc chiến chống Tần. Năm 208 TCN, quân Tần phải rút lui. Với uy thế của mình, Thục Phán xưng vương (An Dương Vương), liên kết các bộ lạc Lạc Việt và Âu Việt lại, dựng nên nước Âu Lạc.

Năm 207 TCN, Triệu Đà - vua nước Nam Việt - tung quân đánh chiếm Âu Lạc. Cuộc kháng cự của An Dương Vương thất bại. Suốt 7 thế kỷ tiếp đó, mặc dù các thế lực phong kiến phương Bắc thay nhau đô hộ, chia nước ta thành nhiều châu, quận với những tên gọi khác lạ mà chúng đặt ra, nhưng vẫn không xoá nổi cái tên "Âu Lạc" trong ý thức, tình cảm và sinh hoạt thường ngày của nhân dân ta.

 

VẠN XUÂN - Tồn tại 58 năm (544-602)

Mùa xuân năm 542, Lý Bí khởi nghĩa đánh đuổi quân Lương, giải phóng lãnh thổ. Tháng 2/544, Lý Bí lên ngôi Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, khẳng định niềm tự tôn dân tộc, tinh thần độc lập và mong muốn đất nước được bền vững muôn đời.

Chính quyền Lý Bí tồn tại không lâu rồi lại rơi vào vòng đô hộ của các triều đại phong kiến Trung Quốc (từ năm 602). Quốc hiệu Vạn Xuân bị vùi dập và chỉ được khôi phục sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán bằng chiến thắng Bạch Ðằng năm 938, chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc.

 

ĐẠI CỒ VIỆT - Tồn tại 86 năm (968-1054)

Năm 968, Ðinh Bộ Lĩnh dẹp yên các sứ quân cát cứ, thống nhất quốc gia, lên ngôi Hoàng đế và cho đổi quốc hiệu là Ðại Cồ Việt (nước Việt lớn). Quốc hiệu này duy trì suốt đời Ðinh (968-979), Tiền Lê (980-1009) và đầu thời Lý (1010-1053).

 

ĐẠI VIỆT - Tồn tại 748 năm (1054-1804)

Năm 1054, nhân điềm lành lớn là việc xuất hiện một ngôi sao sáng chói nhiều ngày mới tắt, nhà Lý liền cho đổi tên nước là Ðại Việt và quốc hiệu Ðại Việt được giữ nguyên đến hết thời Trần…

Sau 10 năm kháng chiến (1418-1427), cuộc khởi nghĩa chống Minh của Lê Lợi toàn thắng. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, đặt tên nước là Ðại Việt (lãnh thổ nước ta lúc này về phía Nam đã tới Huế).

Quốc hiệu Ðại Việt được giữ qua suốt thời Hậu Lê (1428-1787) và thời Tây Sơn (1788-1802).

 

ĐẠI NGU - Tồn tại 7 năm (1400-1406)

Tháng 3/1400, Hồ Quý Ly phế Trần Thiếu Ðế, lập ra nhà Hồ và cho đổi tên nước thành Ðại Ngu ("ngu" tiếng cổ có nghĩa là "sự yên vui"). Quốc hiệu đó tồn tại đến khi giặc Minh đánh bại triều Hồ (tháng 4/1407).

 

VIỆT NAM - Tồn tại 80 năm (1804-1884)

Năm 1802, Nguyễn Ánh đăng quang, mở đầu thời Nguyễn và cho đổi tên nước là Việt Nam, Quốc hiệu Việt Nam được công nhận hoàn toàn về mặt ngoại giao để trở thành chính thức vào năm 1804. Tuy nhiên, hai tiếng "Việt Nam" lại thấy xuất hiện từ khá sớm trong lịch sử nước ta. Ngay từ cuối thế kỷ 14 đã có một bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí do trạng nguyên Hồ Tông Thốc biên soạn. Cuốn Dư địa chí của Nguyễn Trãi (đầu thế kỷ 15) nhiều lần nhắc đến hai chữ "Việt Nam". Ðiều này còn được đề cập rõ ràng trong những tác phẩm của trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), chẳng hạn ngay trang mở đầu tập Trình tiên sinh quốc ngữ đã có câu: "Việt Nam khởi tổ xây nền". Người ta cũng tìm thấy hai chữ "Việt Nam" trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ 16-17 như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Phòng, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Tây, bia chùa Phúc Thành (1664) ở Bắc Ninh.... Ðặc biệt bia Thuỷ Môn Ðình (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: "Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan" (đây là cửa ngõ yết hầu của nước Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc). Về ý nghĩa, phần lớn các giả thuyết đều cho rằng từ "Việt Nam" kiến tạo bởi hai yếu tố: chủng tộc và địa lý (người Việt ở phương Nam).

 

ĐẠI NAM - Tồn tại trên lý thuyết 107 năm (1838-1945)

Ðến đời vua Minh Mạng (1820-1840), quốc hiệu được đổi thành Ðại Nam. Dù vậy, hai tiếng "Việt Nam" vẫn được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm văn học, trong nhiều giao dịch dân sự và quan hệ xã hội.

 

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA

Ngày 19/8/1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, lật đổ hoàn toàn ách thống trị phong kiến và thực dân, mở ra một kỷ nguyên mới. Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Suốt 30 năm tiếp theo, tuy đất nước lâm vào cảnh chiến tranh, rồi chia cắt, hai tiếng "Việt nam" vẫn được phổ biến từ Bắc chí Nam và trở thành thân thiết, thiêng liêng với mọi người.

 

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Ngày 30/4/1975, miền Nam được giải phóng, non sông quy về một mối. Ngày 02/7/1976, trong kỳ họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất, toàn thể Quốc hội đã nhất trí lấy tên nước là Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp năm 1980 và hiến pháp năm 1992 tiếp tục khẳng định quốc hiệu đó, đưa nó trở thành chính thức cả về pháp lý lẫn trên thực tế.

Sưu Tầm


Powered by Create your own unique website with customizable templates.