Tổng hợp các thể loại nhạc thính phòng, giao hưởng
và các bài concerto nổi tiếng
|
|
Thể loại Concerto1/ Giới thiệu chung: Concerto là một thể loại âm nhạc với đặc trưng gồm có 3 chương, cho 1 hay nhiều loại nhạc cụ độc tấu với dàn nhạc. Cái tên “Concerto” lần đầu tiên được sử dụng ở Ý vào cuối thế kỷ 16 nhưng mãi đến khoảng năm 1600 vào đầu thời kì Baroque ở Ý, nó mới trở nên phổ biến. Đầu tiên Concerto và Concertato là sự pha trộn của các loại nhạc cụ giàu màu sắc hoặc các giọng hát hoặc cả hai được áp dung rộng rãi ở những bản nhạc mang màu sắc thần thánh hoặc trần tục, đuợc gọi là một nhóm các nhạc cụ hoặc ca sỹ kết hợp với nhau hoặc cả hai. Một nhóm có thể được xem như một thể thống nhất nhưng pha trộn toàn bộ những âm thanh tương phản nhau được đặt ở vị trí này hoặc ở vị trí khác. “Phong cách Concerto” này được phát triển bởi nhà soạn nhạc người Ý Claudio Monteverdi (1567 - 1643), đặc biệt trong tập thứ 5 của 8 tập nhạc Madrigal (1605 - 1638). Chịu ảnh hưởng một phần từ Monteverdi, nhà soạn nhạc người Đức Heirich Schülz cũng áp dụng phong cách mới này cho các tác phẩm nhạc tôn giáo Đức. Ý nghĩa của Concerto được tiếp tục sử dụng vào thế kỷ 18 khi nhiều bản cantata tôn giáo của Johann Sebastian Bach cũng được đề là Concerto.
2/ Concerto Grosso và các chi nhánh của nó: Thể loại Concerto được hồi sinh lần đầu tiên vào khoảng cuối thế kỷ thứ 17. Arcangelo Corelli (1653 - 1713), nghệ sỹ violin chính và là nhạc sỹ của trường dạy violin nổi tiếng miền bắc nước Ý đã sử dụng tên gọi mới Concerto Grosso cho 12 bản nhạc trong Opus 6 của ông (có lẽ được viết vào khoảng 1680 – 1685 và được xuất bản sau khi ông mất vào năm 1714). Những sáng tác này sử dụng dàn dây - goi là Concerto Grosso hay Ripieno (đầy đủ) hoặc Tutti (tất cả) - được chơi với một nhóm độc tấu nhỏ, goi là Concertino, ở đó trong các bản nhạc của Corelli gồm chỉ có 3 người chơi. Các bản Concerto của ông bao gồm một chuỗi các bản nhạc ngắn tương phản nhau về nhịp và tốc độ, gần giống với phong cách và hình thức của thể loại âm nhạc chủ đạo thời đó là Trio Sonata. Loại Concerto Grosso mới đó đã được viết nên bởi nhiều nhà soạn nhạc khác như nhạc sỹ người Ý Giuseppe Torelli (1658 - 1709) và không lâu sau đó nó phát triển và có phong cách đặc trưng riêng bởi sự quyết định chủ đề của nó dựa trên những hợp âm rải chạy đuổi nhau, những nhịp điệu lặp đi lặp lại và phong cách hoà âm điển hình quy định âm chủ đạo. Nó tiếp tục phổ biến suốt thời kỳ Baroque, đặc biệt nhất là bản Concerto Brandenburg số 6 của Bach. Tính đặc trưng riêng biệt đó vẫn còn được sử dụng cho dàn dây khi phân loại nhạc cụ độc tấu - bộ dây, bộ hơi và hỗn hợp. Một Concerto Grosso có một tiểu mục, một đoạn độc tấu trong đó 1 Concertino được thay thế bằng một đoạn độc tấu của một nhạc cụ do đó làm tăng sự đối thoại của nhạc cụ độc tấu với dàn nhạc. Các Concerto đầu tiên dành cho nhạc cụ độc tấu là của các nhạc sỹ Ý như Torelli và Tomaso Albinoni (1671 - 1750) viết cho violin, trumpet hoặc oboe. Chẳng bao lâu sau họ đã soạn cho nhiều nhạc cụ độc tấu hơn, trong số đó đáng lưu ý nhất là những bản Concerto độc tấu của nhà soạn nhạc nổi tiếng người Ý Antonio Vivaldi (1678 - 1741). Một số lượng lớn các nghệ sỹ độc tấu có trình độ bậc thầy đặc biệt là các nghệ sỹ Violin đã khai thác các Concerto độc tấu như là một công cụ để thể hiện khả năng của mình, cả ở trong nhà thờ lẫn các buổi biểu diễn cá nhân hoặc bán công cộng Những tác phẩm đầu tiên đã thiết lập nên một khối lượng quy định lớn làm tiêu chuẩn cho các bản Concerto độc tấu sau này cho đến tận những năm 1900. Một chuỗi gồm 3 chương: nhanh - chậm - nhanh với chương giữa là một chủ âm khác với chủ âm của phần đầu và phần cuối. Trong những phần nhanh, một đoạn độc tấu sẽ được phát triển thành một phần dài thường trội hơn bởi sự trang trí bằng các hình tượng nhanh, những phần này được đan xen nhau giữa 4 hoặc 5 phần lặp đi lặp lại dành cho đầy đủ cả dàn nhạc được goi là Ritonello (sự kết hợp các phần với nhau được goi là Ritonello). Trước khi kết thúc phần Ritonello ở cuối mỗi đoạn, nghệ sỹ độc tấu sẽ phô diễn kỹ thuật và kỹ năng chơi nhạc ngẫu hững bằng một đoạn nhạc gọi là Cadenza. Mỗi đoạn Cadenza vẫn nằm trong bản Concerto chính suốt cả thời Cổ điển và Lãng mạn sau này mặc dù các nhà soạn nhạc thường viết nó ra ngoài bản Concerto dựa vào sự cảm nhận và khả năng riêng của từng người trình diễn. 3/ Thời kỳ Cổ điển: Sự thay đổi của nền âm nhạc vào giữa thế kỷ thứ 18, chuyển từ phong cách Baroque sang Cổ điển không thể không ảnh hưởng đến thể loại Concerto. Bên cạnh thời hoàng kim ngắn ngủi của nhánh âm nhạc Pháp được goi là thể loại Concertante Symphonie, thể loại Concerto Grosso bị diệt vong đã tạo thuận lợi cho thể loại Giao hưởng - đã hấp thu được rất nhiều nét đặc trưng của nó. Tuy nhiên Concerto vẫn là một thể loại đòi hỏi kỹ thuật cao không thể bỏ qua đặc biệt đối với các nhà soạn nhạc và nghệ sỹ biểu diễn. Sự nổi lên của cây đàn Piano đầy mới mẻ đã thay thế cây đàn Violin truyền thống làm nhạc cụ độc tấu. Đây là một nhạc cụ yêu thích của cả Wolfgang Amadeus Mozart (1756 - 1791) (người đã viết rất nhiều bản Concerto vĩ đại - chủ yếu dành cho đàn Piano) và Ludwig van Beethoven (1770 - 1827) (người viết 5 bản Concerto cho Piano và 1 bản Piano Concerto cho Violin (1801 - 1811)) đã đưa thể loại này đạt tới đỉnh cao của nó. Suốt thời kỳ Cổ điển, một Concerto đã dài hơn trước. Hình thức của nó thể hiện sự dung hoà giữa thể loại Ritonello truyền thống (đòi hỏi trình độ biểu diễn bậc thầy) và phong cách mới thiên về giao hưởng. Những phần đầu khác với hình thức Ritonello trong đó cách trình diễn cả đoạn Ritonello thứ nhất và phần độc tấu đầu tiên giống như phần đầu trong bản giao hưởng, phần còn lại cũng tương tự thế nhưng nhạc cụ độc tấu và dàn nhạc cùng chơi hoặc chơi luân phiên nhau. Đoạn kết thúc luôn là một Rondo mà nhạc cụ độc tấu chơi một đoạn điệp khúc lặp đi lặp lại. Các phần chậm vẫn còn sót lại một ít các qui định ngặt nghèo trong dạng thức. Giống như các bản giao hưởng, các Concerto đã trở nên lớn hơn, có những tác phẩm đặc biệt dành để trình diễn trong phòng hoà nhạc trước một lượng lớn khán giả. 4/ Thời kỳ Lãng mạn: Sau năm 1820 có một vài nhà soạn nhạc đã viết hơn 2 hoặc 3 bản Concerto mà mỗi bản đặc biệt dành riêng cho một nghệ sỹ bậc thầy trình diễn. Khả năng chơi Violin siêu phàm của Nicolo Paganini (1782 -1820) đã sớm được nối tiếp bằng Franz Liszt (1811 - 1886) - nhà soạn nhạc, nghệ sỹ Piano bậc thầy người Hungary. Ông đã tạo nên một bức màn bí ẩn về một thiên tài âm nhạc. Hầu hết các Concerto quan trọng được viết cho Piano và Violin, được ra đời bởi Liszt và các nhà soạn nhạc người Đức như: Carl Maria von Weber, Felix Mendelssohn, Robert Schumann và Johannes Brahms; nhà soạn nhạc Ba Lan Frederic Chopin và nhạc sỹ người Nga Peter Ilyich Tchaikovsky. Họ có những thử nghiệm ở cả thể loại lớn với 3 chương và cả thể loại của riêng họ. Tuy nhiên các tác phẩm vẫn giữ được nền tảng giao hưởng như ban đầu. Các nhạc cụ độc tấu và dàn nhạc thì luôn luôn đối thoại với nhau trong sự đối lập đầy tính kịch nhưng lại thường dẫn đến một sự thống nhất ngẫu nhiên. 5/ Thế kỷ 20: Về căn bản, phương thức của âm nhạc hiện đại đầu thế kỷ 20 gây được hứng thú là giao hưởng. Một Concerto dường như không còn phù hợp với nhiều nhà soạn nhạc, mặc dù vậy các nghệ sỹ độc tấu tài năng (thường là nghệ sỹ Piano hoặc Violin) vẫn tiếp tục truyền cảm hứng cho các nhà soạn nhạc. Ví dụ như Arnold Shoenberg, Alban Berg, Anton Webern - người Áo; Paul Hindemith - người Đức; Bela Bartok - người Hungary và Igor Stravinsky - người Nga. Tuy nhiên mỗi bản nhạc lại dường như ảnh hưởng bởi phong cách của các nhà soạn nhạc thời trước nhưng hiếm khi bị chi phối bởi chúng. Một sự thay thế mới mẻ trong cảm nhận âm nhạc rất rõ ràng, các âm thanh tương phản cùng kết cấu đối âm dẫn tới sự phục hồi của thể loại Concerto Grosso cũ. Những nhà soạn nhạc này đã viết được một số lượng đồ sộ các tác phẩm, sử dụng rất nhiều các âm sắc tương phản ở cả giao hưởng và thính phòng.
- Nguồn: Encarta.msn.com
|
CORELLI VÀ MÓN QUÀ GIÁNG SINH
Thứ sáu, 21/12/2012
Hàng năm, cứ mỗi dịp Giáng sinh về, những bản nhạc quen thuộc như Jingle bells, Silent night... lại vang lên ở khắp mọi nơi. Còn lần này, chúng ta hãy thử cùng đón Giáng sinh với Concerto grosso cung Sol thứ, op.6, No.8 của Arcangelo Corelli (1653–1713). Bản concerto này còn được biết tới với tên Christmas Concerto, do Cardinal Pietro Ottoboni đặt viết và được xuất bản vào năm 1714. Các concerto grosso của Corelli bao gồm một chuỗi các bản nhạc ngắn tương phản nhau về nhịp và tốc độ, gần giống với hình thức những tam tấu sonata thời đó. Chúng được sáng tác với một lối viết rất thực tế, cho phép người tổ chức buổi hòa nhạc điều chỉnh quy mô của dàn nhạc và vai trò của các bè để thích hợp với ngân sách và các sự kiện được tổ chức. Tuy nhiên, có một câu hỏi đặt ra rằng tại sao Corelli sáng tác concerto này vào khoảng năm 1690 nhưng mãi tới năm 1714, một năm sau khi ông qua đời nó mới được xuất bản (trong cuốn Twelve concerti grossi, Op. 6 của ông). Điều này được lý giải rằng Corelli đã có sự thay đổi nhỏ so với hình thức sonata nhà thờ (một loại tác phẩm nghiêm túc có 4 chương theo cấu trúc chậm - nhanh - chậm - nhanh), với mục đích làm tăng thêm tính kỹ thuật và sự hấp dẫn của tác phẩm để có thể "sánh ngang với các concerto của Torelli, Albinoni...". Bên cạnh đó, Corelli còn tỏ ra hơi cầu toàn trong việc chau chuốt tác phẩm của mình, và tất cả những điều này giải thích tại sao ông lại mất nhiều thời gian để cuốn sách được ra đời đến vậy. Mừng một Giáng sinh an lành. Ảnh: wallcoo.net Bản concerto này khi sáng tác đã được Corelli mở rộng từ bốn chương (như thông thường) lên thành năm chương nhạc: 1. Vivace - Grave - Allegro 2. Adagio - Allegro - Adagio 3. Vivace 4. Allegro 5. Pastorale (Largo) Trong khi soạn nhạc, Corelli hết sức rành mạch đối với việc xử lý của các nhạc cụ. Ở chương mở đầu, ông đã chú thích ở bên dưới dòng chữ Arcate, sostenuto e come stà, nghĩa là khi chơi nó, âm thanh của vĩ cầm cần được ngân dài và không được thêm thắt bất kỳ thứ gì. Điều này đảm bảo rằng mọi thứ đều đúng với những gì mà Corelli muốn cho âm điệu của phần Grave, và như Christopher Hogwood đã nói, nó "gợi nên ý nghĩ về đêm Giáng sinh". Ông còn ngụ ý sâu xa rằng nếu bản concerto không được biểu diễn cho dịp Giáng sinh, thì chương cuối Pastorale có thể đã bị bỏ quên và nó sẽ quay trở về cấu trúc 4 chương như thông thường. Trong concerto của Corelli luôn có những đoạn ngắn tương phản với nhau về tốc độ và giai điệu. Chương đầu được chia làm ba phần Vivace - Grave - Allegro. Những nhạc cụ độc tấu (gồm hai violin và một cello) cùng hòa âm với dàn nhạc dây. Chương cuối Pastorale, được yêu cầu chơi với tiết tấu Largo (rất chậm), có thể được hình dung giống như sự thoát tục của cả bản concerto này. Hòa trên nền của dàn nhạc là màn song tấu đầy mê hoặc của hai violin. Cây đàn cello, ngoài việc giữ âm nền cho dàn nhạc cũng tham gia vào phần song tấu. Những quãng âm rộng đầy truyền cảm của cello càng làm tăng thêm sự quyến rũ cho chương nhạc đẹp mê hồn này. Bản concerto kết thúc một cách nhẹ nhàng với những nốt pianissimo, đưa chúng ta tới một sự tĩnh lặng của màn đêm và đầy ắp những xúc cảm... Bản Concerto grosso này cũng xuất hiện trong soundtrack của bộ phim Master and Commander: The Far Side of the World. Tác giả: Arcangelo Corelli Tác phẩm: Karajan & Berniner Philharmoniker Biểu diễn: Dàn nhạc Berlin Philharmonic Chỉ huy: Herbert von Karajan
(Nguồn: baomoi.com) HAI BẢN CONCERTO CHO PIANO CỦA BRAHMSRaphael Hai bản Concerto của Brahms đều đồ sộ cả về tầm vóc lẫn chiều sâu và hội tụ vẻ đẹp chuẩn mực của sự thanh khiết và hoàn mỹ. Bạn dễ dàng cảm nhận được sự uyên thâm về chiều sâu tư tưởng của Brahms, đúng nghĩa của một triết gia thời kỳ lãng mạn. Có lẽ vì vậy mà người ta xếp Brahms vào nhóm 3B của trường phái cổ điển Đức, với tính cách điển hình của dân tộc Đức, một dân tộc tôn sùng gần như tuyệt đối vẻ đẹp của sự chuẩn mực và kinh điển. Mỗi thời kỳ lớn của nhạc cổ điển, người Đức đều có 1 nhạc sĩ tiêu biểu cho phong cách này: đại diện cho thời kỳ Baroque là Bach, Classical là Beethoven và Romantic là Brahms. Một điểm nổi bật khác của Brahms là ông đã làm một bước tiến mới cho piano concerto: "giao hưởng hóa Concerto". Dàn nhạc của Brahms được đẩy lên tới một giới hạn gần như là tuyệt đối cho 1 dàn nhạc concerto, nhưng đàn piano vẫn không bị lép vế trước dàn nhạc. Có thể cảm nhận rõ điều này trong chương I và III của số 1 và chương I và II của bản số 2, nhất là trong những cadenza ở giữa và cuối chương. Song, vẫn có những khoảng trống mênh mông như trong chương II bản số 1, dàn nhạc chìm xuống như làn sương mờ ảo lúc hoàng hôn với những âm thanh nhỏ vang vọng trong đêm tối... K.Zimerman Zimerman lúc còn rất trẻ đã biểu diễn 2 piano concerto của Brahms dưới sự chỉ huy của nhạc trưởng huyền thoại Leonard Bernstein. Xem DVD, ấn tượng nhất là cảnh kết thúc bản số 1. Khi khản giả hoan hô, Bernstein đã dang 2 tay ôm chàng Zimerman trẻ vào lòng còn Zimerman thì mỉm cười, gục đầu vào ngực ông và nhắm mắt lại. Bernstein với mái đầu bạc trắng và nụ cười phúc hậu mãn nguyện ôm Zimerman giống như một người cha ôm một người con mà ông tự hào vậy. Đó là khoảnh khắc đáng nhớ của 2 bậc đại thiên tài thuộc 2 thế hệ của lịch sử biểu diễn nhạc cổ điển. Nhìn Zimerman già dặn lão làng hiện nay, ít ai nhớ lại người này từng được ông già Leonard Bernstein ôm vào lòng sau khi biểu diễn thành công 2 tác phẩm vĩ đại của âm nhạc thế giới. Nguồn: nhaccodien.info Brahms piano concerto B flat major|Zimerman, Bernstein 1st mvt (part I):
|
|
|