Gà điềuGà chuốiGà chuốiGà khétGà điềuGà điềuGà điềur |
|
(Đạo kê) |
Chiêu khắc phòng đao
(Những vảy có thế đá cản cựa đâm)
A) Những vảy dưới đây có hiệu lực và thế đá cản cựa địch đâm độc, chết tại chỗ, hoặc không đá được nữa, địch thủ nếu tài cao, vẫn có thể đâm chem., nhưng chỉ sơ sài không đáng kể:
1- Hai chân đều có “án thiên”.
2- Hai chân đều có “phủ địa” hoặc “phủ hành song”.
3- Hai chân đều có “đại giáp” hoặc “đệ I thần hổ đao”.
4- Hai chân đều có “liên giáp nội” hoặc “đệ II thần hổ đao”.
5- Gà có “tứ trực”.
6- Đôi chân có “tứ trụ giáp”.
7- Gà có “võ văn” song toàn.
8- Cả hai chân đều có “độ điền” đúng cách.
9- Cả hai chân đều có độ “tam trái”.
10- Đôi chân đều có “yểm địa”.
11- Chân có “lưỡng ngọc song nước”.
12- Đôi chân có “âm dương tương giao”.
13- Đôi chân hai hàng vảy trơn.
B) Những vảy dưới đây có thể đá cản tựa đâm, chết tại chỗ. Nếu địch thủ tài cao, vẫn có thể đâm được, nhưng hiếm thấy chết tại chỗ.
1- Đôi chân có “độc giáp” hoặc “đệ tam thần hổ đao”.
2- Gà có “ám long”
3- Đôi chân có “nhân tự thới”.
4- Đôi chân có “gạc thập” đối chiếu ngang nhau.
5- Gà có vảy “ẩn địa”.
6- Đôi chân có “tam vinh”.
7- Đôi chân có “tam tài”.
8- Đôi chân có “phủ thành kích” ngang nhau.
9- Đôi chân có “phản hậu”.
10- Chân có “thượng hạ giao chinh”.
11- Gà có “giáp cần”.
12- Gà có “địa giáo”.
Sắp đặt ra trường
Bữa ra trường, sáng tinh sương là lão “sư kê” đến trại gà, bản thân ôm từ con trống ra khỏi chuồng, vuốt ve mơn trớn (nựng) đã đời rồi mới cho vào lồng ép. Phép nhốt gà vào lồng ép cũng có kỷ luật và cũng rất nghệ thuật, phải bưng con gà đút ngược, để chui đuôi vào trước, nhà điệu nghệ không bao giờ đút đầu gà vô trước, vì có ý hiểu đưa đầu gà chui vô là “mất thể thống con gà”. Và đút đuôi vào trước thì khi vào lồng, con gà ngó mặt ra cửa, xem oai nghi hơn. Khi đến trường đấu, đưa gà vào bội, thì y như “rước cô dâu”, mở cửa “thỉnh” ra chớ không bắt đi ngược, mất thể thống và vẻ long trọng đi. “Sư kê” quan sát một lần chót trước khi đưa gà ra cho đấu, tay vuốt mã gà, miệng “tróc tróc” kêu tên từng con một, “hỏi han ân cần” như một vị tướng khuyến khích binh sĩ trước khi khai chiến.
Trên mỗi lồng ép, đều có choàng một chiến khăn vuông vải đỏ, khăn này luôn luôn phải che theo chiều nắng, không khéo con gà say nắng, hay ngộ cảm vì ngọn nắng chói ngay đầu ngay mắt thì nguy to.
“Sư kê” cũng có phận sự kiểm tra lương thực của gà, phải nhớ mang theo nước ở nhà cho gà uống, e chừng không quen nước lạ ngộ thời bị chanh nước, chói nước, thì còn gì công phu luyện tập. Cơm ở nhà nếu để nguội, vắt sẵn, hờ khi đụng độ sẽ có cho gà ăn cầm hơi, trước khi gặp độ, không gà nào được ăn lúc sáng bữa ra trường đấu, và chỉ được uống cầm chừng trừ bữa ăn.
Kinh nghiệm cho biết, gà có hột lúa trong bầu diều chưa kịp tiêu không khác võ sĩ ăn no, xáp trận, chúng đánh ói cơm mà báo.
Đồ nghề lợi hại, dụng cụ tối tân của “sư kê” là chiếc khăn điều để bồng nước. Khách chơi gà, xem trọng như “lá cờ lệnh” của một đạo binh, đố ai dám rớ trừ phi lão “sư kê” đi đâu cũng vắt trên vai, rất hãnh diện còn hơn kép hát bội với mấy lá cờ xanh, đỏ cắm sau lưng, và mỗi khi chiếc khăn rơi giữa trường đấu hay trong chậu nước là biểu hiện “sư kê” và “chiến kê” đã đầu hàng vô điều kiện không khác chi trên võ đài, bọn làm nước quăng khăn nước lên đài để cứu chàng võ sĩ bị người đánh hơn đánh cho.
Ngoài “chiếc khăn lệnh”, “sư kê” còn có một hộp thiếc nhỏ, đựng đủ thập vật, từ cây kim sợi chỉ may, dao con thiệt bén, kéo nhọn, vải sạch, miểng sành miểng chén (dành khi làm cựa), và còn bao nhiêu đồ tế nhuyễn khác, đều là dụng cụ “bí mật” phòng khi gấp rút thì có sẵn, chuốt cạo mũi cựa cho thêm dữ, vá vết thương, may chỗ bị đâm v.v..
Tập luyện gà
Gà càng ngày ra độ càng được luyện thúc kỹ càng, trước đó phải lo nhồi gà.
+ Cách nhồi là ôm con gà để trước mặt, vô tay gà và nhồi lên xuống nhẹ nhẹ cho chân gà hổng mặt đất độ 3 hoặc 4 tấc, nhịp đều, bỗng nâng cao lên một chút và rút tay ra liền, tự nhiên gà mất thăng bằng và rơi xuống, sẽ chống cẳng và phải dùng hai gối chống chỏi cho khỏi tê.
+ Cũng như trên, lần này thả cho gà ngã chúi về phía trước, rồi lại tiếp tục cho ngã về phía sau, ngã bên phải, ngã bên trái, đó là thể thức “nhồi gà”, tập như thế, gà sẽ vững vàng đôi chân, tránh yếu gối và cũng đồng thời tiêu bớt mỡ dư, mỗi ngày khoảng mươi mười lăm phút là đủ.
+ Khi tập nhồi phải cho ăn một chút cam thảo, nấu lấy nước uống, như vậy gà thở thông, chẳng kéo đờm lúc mệt. Trước khi đá ba, bốn ngày, cũng cho uống nước cam thảo nói trên, khi đá gà ít bị đờm lên chặn cuống họng, khiến gà khó thở, mất sức.
Săn sóc và nuôi dưỡng
Gà trống: vào khoảng một năm trên dưới mới cho là trưởng thành, tuổi vừa để cáp đá, cũng phải giáp một niên trở đi.
Khi gà trưởng thành, phải nghĩ ngay đến chuyện cắt tích, cắt tai, sớm thì bỏ những miếng da vô nghĩa đó.
Sau khi cắt tích, gà được thả ra sân cho sung sức rồi lại nhốt cho ăn uống phủ phê, lúc đãi sạch trấu, nước mưa thật trong, thỉnh thoảng phải cho ăn rau, cá, thịt, trứng và nhất là cà chua, gà mới sung và đẹp.
Khi gà lành mạnh hoàn toàn, lựa một ngày ráo trời đem sổ thử để tìm hiểu thế đá, có món nghề gì xuất sắc, nước chịu đòn ra sao, về khuya chống trả như thế nào. Nghiên cứu cho kỹ để sau dễ lựa gà cặp độ. Nếu là “gà đòn”, sau đó cứ thả vào chuồng riêng nuôi thúc (dưỡng), cho ăn tẩm bổ, điều độ là cần thiết.
Tập sổ thử như thế chừng vài kỳ, cách nhau khoảng nửa tháng, là có thể đem đi đá sau khi nuôi thúc tốt.
Nhưng nếu “gà cựa”, như thế chưa đủ, vì cựa chưa dài, chưa biết tung ngọn cước, múa lưỡi dao, phải chờ đúng tuổi là khoảng 16 hay 17 tháng trở đi, khi ấy mới biết được thứ dữ hay thứ vừa. (Chú ý: sổ lần một là 10 phút, lần hai khoảng gấp đôi, và lần ba là hai hồ nửa tiếng), cũng chẳng nên sổ quá nhiều, sau này gà sẽ quen tật lúc còn tơ, chỉ đá một chập rồi lôi thôi không chịu đá nữa, thêm phiền.
Khi rảnh rang mới nghĩ đến chuyện hớt lông, lông nách, lông đầu thì hớt sạch tróc, còn lông cổ thì chừa lại một túm sát cần, chỗ ấy là chỗ nhược, da non, phải có lông che kín, cần xén lông dạ dưới, chừa năm ba sợi che đít. Nơi đùi hớt trọn chừa đủ mấy sợi đỡ lạnh, vế non và ba sườn làm cho sạch trơn, cho nghệ mau thấm, khi đá nếu bị đâm thì biết ngay. “Làm lông” rồi, có những thời kỳ huấn luyện sau đây:
1) Thoa rượu thuốc
2) Sổ
3) Chạy lồng
4) Đi hơi
5) Om bóp
6) Vô nghệ
7) Nuôi thúc
8) Dầm cẳng
1) Thoa rượu thuốc
Tìm một thứ rượu thuốc bóp, dùng khăn nhám chấm và thoa khắp thân thể gà, thoa xong đôi ba lượt, thả gà ra sân úp bội phơi nắng dịu, mai lại tắm và thoa, (tắm bằng nước trà hoặc nước lá ổi) làm đôi ba lượt.
2) Đi hơi
Lúc sổ gà, lấy vải dầy bịt mặt, bịt mỏ, chừa mắt, bịt cựa, bịt thới, lúc đá không thể mổ cắn được chỉ “nạp xạ” chân không, tập như thế lâu ngày, cốt cho gà bền sức, lâu mệt, giỏi “nạp xạ”, giỏi “quăng”.
3) Chạy lồng
Nhốt gà trong chồng, để hai con thấy nhau, nhưng không đá được, (tương kiến bất tương đả) hai con sẽ phẫn nộ, đá bóng nhau, như thế cốt cho gà bền chí, quyết chiến đấu.
4) Om gà
Lấy nồi đất, đựng ít nước tiểu pha với rượu thuốc, nấu sôi, rồi lấy vải bọc ngải cứu và nghệ dằm nát, chấm nước tiểu thuốc, bóp sơ cho nước ấy ra bớt, rồi dùng túi ấy ép trên thương tích ở mình gà, gà sẽ mau lành những vết thương khi đá sau này và vết thương hiện có, đồng thời thêm da xương cứng chắc.
5) Vô nghệ
Loại nghệ tàu, để lâu ngày cứng như đá, có bán tại tiệm thuốc bắc là tốt nhất, bằng không dùng nghệ ta, già mới tốt.
Sau khi sổ, tắm cho gà xong, lấy nghệ mài ra như bột và ngâm gồm: nghệ + quế chi + một ít nước lạnh + một chút thuốc bóp + một chút nước tiểu con trai + nửa phần rượu đế + một chút muối bọt + một chút phèn chua tán nhỏ ngâm chung với vài cái đinh sét. Sau đó trộn lại sền sệt như hồ, dùng bàn chải cọ sát vào da gà, chấm nước nghệ chà vào gà, thoa luôn cả cẳng. Xong, ôm gà ra sân tắm nắng dịu trong bội, mai sau gà sẽ săn chắn như đá. Tắm nắng khô mình thì đem vào tẩm nghệ và xả nghệ (tắm bằng xác trà) cho phai sạch.
6) Sổ gà
Hớt lông và vô nghệ rồi, vài ngày sau bắt gà sổ thử, lựa hai con đồng chạn đồng sức, thường là sổ hai nước, mỗi nước 10 phút, sau mỗi nước nên cho gà nghỉ vài ba phút, coi chừng sổ lâu hư gà, cần nhất là sổ có chừng độ, nửa tháng một lần, cứ như vậy khoảng vài ba lần là có thể “cáp đá”. Trong khi sổ, phải biết “vỗ hen”, sổ xong nước đầu, phải vỗ hen, kẻo không trong họng có trầy trụa, sẽ đóng đờm thành cục, và khò khè thở mãn đời.
- Cách vỗ hen: Kẹp gà một bên hông, hai chân gà hổng đất, tay phải nắm đầu gà, ghì xuống, đưa ngón tay mở miệng gà, tay kia nắm một khăn sạch, có thấm nước, bóp cho nước chảy vào họng gà, đoạn ghì đầu gà chúi xuống vỗ bì bạch vào họng gà, bao nhiêu nhớt, đàm chất dơ ra sạch, khi thấy hết, cho gà uống chút nước cho thông cổ, còn có khi lấy lá trầu tươi hoặc lá ổi nhàu nát, gói một cục muối nhỏ bằng hạt bắp nhét vào miệng gà, đó là mún thuốc ngừa độc đón gió rất tốt, đoạn tắm sạch (chỉ dùng khăn ướt lau thân thể gà mà thôi, nếu làm ướt lông gà nhiều sẽ cảm lạnh mà chết). Xong, đem phơi nắng dịu, cho khô lông và đem đi nghỉ.
7) Dầm cẳng
Sau những bữa ăn tối, bắt gà “dầm cẳng” vào một chậu nước thuốc, cao đến đầu gối, nước ấy gồm có: nước tiểu pha rượu trắng + một chút muối ăn + một chút phèn chua + một ít thuốc rê + một ít đinh sét. Ngâm như vậy, cốt luyện cặp cán gà cứng như đá, khô rang như chân gà chết.
8) Nuôi thúc trước khi đá (dưỡng)
Thời gian nuôi thúc tối thiểu cũng phải 10 ngày trước khi đá, sau khi làm đủ cách huấn luyện như trên.
Mỗi sáng sớm từ ba đến bốn giờ (giờ nhất định), cho gà uống nước, uống thật điều độ, dùng chén có cỡ đong cẩn thận, không được để gà uống tự do (một ly là một ly), như vậy gà sẽ không hốc nước khi đá, bền sức hơn.
Sáng khoảng 5 giờ cho gà ra tắm sương, dùng một khăn lông phơi ngoài trời, từ chập tối, đến 5 giờ sáng khăn ấy sẽ ướt vì thấm sương trời. Trước khi thả tắm, dùng khăn vắt nước sương ấy cho gà uống ít giọt, rồi cũng khăn ấy lau khắp thân thể gà trước khi thả quần sương (kỵ đạp mái, gà mất sức), không quên phun vào gà một chút rượu trắng cho máu chạy đều. Đến chiều, mặt trời xuống, nắng dịu, cũng phơi gà một chút cho quen, cũng chẳng quên phun rượu. 5 giờ thả, 6 giờ bắt vô nhốt và cho ăn đúng bữa tuyệt đối. Bữa sáng từ 8 giờ đến 9 giờ, bữa chiều từ 6 giờ đến 7 giờ, giờ nhất định mới cho ăn, có thể sớm muộn đôi chút. Thí dụ: sáng 9 đến 10 giờ, chiều 5 giờ đến 6 giờ.
Thức ăn thường là lúc đãi sạch trấu, được ngâm nước cho mọc mộng mới tốt, hoặc lúa nấu chín, đem phơi nắng cho khô thì tốt hơn. Nhiều nơi công phu dùng lúa nấu chin, rắn men, phơi sương một đêm, phơi khô rồi dùng cho gà ăn, gà sẽ sung hơn, nặng hơn và chắc. Tới bữa cho gà ăn, gà đang ăn rồi thôi, bỏ đi chỗ khác, lập tức cất lúa ngay, mặc dù mới ăn ít (không cho ăn dầm dề), đến bữa khác mới được ăn. Nếu có thuốc tiêu, nên cho uống một chút sau bữa ăn.
Nước uống phải để luôn luôn cho gà (nước mưa là tốt), nước có cát bụi dơ, phải thay ngay. Ngoài hai bữa ăn chính, còn những thức ăn bổ dưỡng sau đây: khoảng hai hay ba ngày, cho gà ăn một quả trứng gà (chỉ ăn lòng đỏ), thịt, cá sống, nhất là lươn, chặt khúc nhỏ (đừng để mất máu tươi), cho ăn sống, các thứ rau, trong thời gian dưỡng, nên cho ăn cà chua, nếu có các thức đậu càng tốt (đậu xanh, đậu phộng, đậu nành v.v. ) thêm vào.
Những thức ăn bổ dưỡng kể trên, lúc nào có thì cho ăn, không cần thời gian nhất định, nhưng cũng không nên cho ăn no khi gần đến bữa chính là lúa, (không quên một vài ngày lại cho ăn sắt vụn một lần, mỗi lần ăn chừng vài cục nhỏ bằng hạt bắp, hạt đậu, sắt không có cạnh bén).
Buổi tối, trước khi đi ngủ, không quên ép gà uống nước một lần nữa, như thế gà sẽ nở cần cổ to hơn.
Trong thời gian thúc dưỡng, luôn luôn theo dõi phân gà, cho biết gà có phân khô cứng, tròn cục là gà sung sức, nếu đi ra nước, hoặc sệt là bộ phận tiêu hóa kém tốt, thiếu sung, cần nuôi gà thật chắc thịt, không bủng beo, và có mỡ dư, mập.
Lúc cho ăn được để trên cao, gà phải nhón gót mới ăn được (tập nhóng cao) sẽ tốt gà.
Cho gà ăn là khi ở nhà, lúc mang đi đá, tuyệt đối không thả cho ăn bậy, ngừa kẻ đầu độc. Đang nuôi thúc, nếu được gần một con gà trống khác (tương kiến bất tương đả), gà sung sức, đi tới đi lui tránh được mỡ dư càng tốt (hình thức như vần xoay).Trước khi đó, phải biết rằng gà không hề khó chịu trong mình.
Phép cáp gà
“Khứ đông xuân lại tết đô,
Phong lưu nhàn hạ cáp gà giải khuây.
Trò chơi tỏ mặt đó đây,
Anh hùng thú điểu trời mây khôn lường.
Xét ra lắm thế nhiều đường
Đua tài bằng trí cao cường ai hơn”.
( Đạo kê )
Trường gà hoặc “xới” hay “xói” đều đồng nghĩa: là một nơi quy tụ các thân chủ gà dùng để dùng đá sau khi đôi bên đã đồng ý về mọi mặt.
Cáp gà: là xem xét, so sánh, cân nhắc, từng bộ lông, thịt, cựa dài hay ngắn, xương to hay nhỏ, đủ cả của hai con gà định cho đá ấy gọi là “nghệ thuật cáp gà”.
Có những điều lệ khi đá không có tính cách nhất định, vì có chút ít thay đổi, tùy từng địa phương hoặc chủ gà.
Sau khi “cáp” xong, đôi bên lo việc cho gà như: uống nước, dùng khăn ướt lau sơ thân gà cho mát mẻ, tươi tỉnh, rồi chuốt cặp cựa cho bén nhọn, để nhạy đâm, sau đó cho gà ăn vài hột cơm để dằn bụng trước khi đá (không nên đá khi diều no cứng) phun nước cho mát, phun rượu cho săn thịt và hăng say và cuối cùng không quên cắt xén bớt lông đuôi, nếu gà “phụng vỹ” chấm đất.
Thời gian đá được đo bằng cây nhang, cây nhang thường chia làm ba đốt, mỗi đốt là một “nước”, một “hồ” hoặc một “om”. Cây nhang thắp lên, hai đàng thả gà còn nắm lại cái đuôi, chờ một người hô “thả gà” thì thả ra…
Khi nào hai con nhảy đá nhau một “xạ” là bắt đầu từ đó kể ăn thua. Tục lệ thường gọi “buông trôi ăn trót”.
Mặc dù vừa “xạ”, “nạp” có một đòn, con gà nào không đá, bỏ chạy là thua.
Ngoài ra khi đang đá, nếu có con nằm chết tại chỗ, không đứng được cũng kể thua.
Tuy chưa chạy, cũng chưa chết, nhưng nằm lỳ chịu đòn, không đánh trả lại và cũng không cắn được gà địch cũng là thua.
Để được lòng hai bên, gà nằm lỳ được phép bắt ra sửa gà ba lần (đem ra ngoài o bế) sau đó thả vô, gà đứng không nổi, chẳng mổ thì nhất định phải thua.
Cũng có nơi đo giờ bằng nước bỏ trong ống, đục lỗ nhỏ cho chảy đến khi hết, ống rớt xuống là chấm dứt hiệp đấu. Mang gà mà vỗ hen, cho uống nước, lau mình mẩy chùi vết thương, rồi lại tiếp tục hiệp hai. Và mãi mãi nếu đôi bên chưa phân thắng bại.
Đanh đá chết tại chỗ là thua.
Đang đá bắt vô làm nước, nghỉ đôi phút, khi thả ra không đá hoặc bỏ chạy kể như thua.
Gặp cảnh ngộ “gà rót”.
Gà rót vì sao đó không chịu, có nhử mãi cũng không được, không đá lại, thì có tục được xin “nhang rót”, hay “nước rót” cũng vậy, trong lúc “nhang rót” thắp lên còn cháy, “gà rót” bỏ thì gà kia kể như không thắng và phải xử hòa, nhưng từ khi “nhang rót” còn cháy, gà chịu đá, sau khi thắp nhang khác tiếp nhang rót lại bỏ chạy, như vậy phải kể là thua.
Có nơi xin 15, 20 cẳng đầu thì chưa kể ăn thua, sau đó gà chạy mới kể thua.
Săn sóc và nuôi dưỡng
Gà trống: vào khoảng một năm trên dưới mới cho là trưởng thành, tuổi vừa để cáp đá, cũng phải giáp một niên trở đi.
Khi gà trưởng thành, phải nghĩ ngay đến chuyện cắt tích, cắt tai, sớm thì bỏ những miếng da vô nghĩa đó.
Sau khi cắt tích, gà được thả ra sân cho sung sức rồi lại nhốt cho ăn uống phủ phê, lúc đãi sạch trấu, nước mưa thật trong, thỉnh thoảng phải cho ăn rau, cá, thịt, trứng và nhất là cà chua, gà mới sung và đẹp.
Khi gà lành mạnh hoàn toàn, lựa một ngày ráo trời đem sổ thử để tìm hiểu thế đá, có món nghề gì xuất sắc, nước chịu đòn ra sao, về khuya chống trả như thế nào. Nghiên cứu cho kỹ để sau dễ lựa gà cặp độ. Nếu là “gà đòn”, sau đó cứ thả vào chuồng riêng nuôi thúc (dưỡng), cho ăn tẩm bổ, điều độ là cần thiết.
Tập sổ thử như thế chừng vài kỳ, cách nhau khoảng nửa tháng, là có thể đem đi đá sau khi nuôi thúc tốt.
Nhưng nếu “gà cựa”, như thế chưa đủ, vì cựa chưa dài, chưa biết tung ngọn cước, múa lưỡi dao, phải chờ đúng tuổi là khoảng 16 hay 17 tháng trở đi, khi ấy mới biết được thứ dữ hay thứ vừa. (Chú ý: sổ lần một là 10 phút, lần hai khoảng gấp đôi, và lần ba là hai hồ nửa tiếng), cũng chẳng nên sổ quá nhiều, sau này gà sẽ quen tật lúc còn tơ, chỉ đá một chập rồi lôi thôi không chịu đá nữa, thêm phiền.
Khi rảnh rang mới nghĩ đến chuyện hớt lông, lông nách, lông đầu thì hớt sạch tróc, còn lông cổ thì chừa lại một túm sát cần, chỗ ấy là chỗ nhược, da non, phải có lông che kín, cần xén lông dạ dưới, chừa năm ba sợi che đít. Nơi đùi hớt trọn chừa đủ mấy sợi đỡ lạnh, vế non và ba sườn làm cho sạch trơn, cho nghệ mau thấm, khi đá nếu bị đâm thì biết ngay. “Làm lông” rồi, có những thời kỳ huấn luyện sau đây:
1) Thoa rượu thuốc
2) Sổ
3) Chạy lồng
4) Đi hơi
5) Om bóp
6) Vô nghệ
7) Nuôi thúc
8) Dầm cẳng
1) Thoa rượu thuốc
Tìm một thứ rượu thuốc bóp, dùng khăn nhám chấm và thoa khắp thân thể gà, thoa xong đôi ba lượt, thả gà ra sân úp bội phơi nắng dịu, mai lại tắm và thoa, (tắm bằng nước trà hoặc nước lá ổi) làm đôi ba lượt.
2) Đi hơi
Lúc sổ gà, lấy vải dầy bịt mặt, bịt mỏ, chừa mắt, bịt cựa, bịt thới, lúc đá không thể mổ cắn được chỉ “nạp xạ” chân không, tập như thế lâu ngày, cốt cho gà bền sức, lâu mệt, giỏi “nạp xạ”, giỏi “quăng”.
3) Chạy lồng
Nhốt gà trong chồng, để hai con thấy nhau, nhưng không đá được, (tương kiến bất tương đả) hai con sẽ phẫn nộ, đá bóng nhau, như thế cốt cho gà bền chí, quyết chiến đấu.
4) Om gà
Lấy nồi đất, đựng ít nước tiểu pha với rượu thuốc, nấu sôi, rồi lấy vải bọc ngải cứu và nghệ dằm nát, chấm nước tiểu thuốc, bóp sơ cho nước ấy ra bớt, rồi dùng túi ấy ép trên thương tích ở mình gà, gà sẽ mau lành những vết thương khi đá sau này và vết thương hiện có, đồng thời thêm da xương cứng chắc.
5) Vô nghệ
Loại nghệ tàu, để lâu ngày cứng như đá, có bán tại tiệm thuốc bắc là tốt nhất, bằng không dùng nghệ ta, già mới tốt.
Sau khi sổ, tắm cho gà xong, lấy nghệ mài ra như bột và ngâm gồm: nghệ + quế chi + một ít nước lạnh + một chút thuốc bóp + một chút nước tiểu con trai + nửa phần rượu đế + một chút muối bọt + một chút phèn chua tán nhỏ ngâm chung với vài cái đinh sét. Sau đó trộn lại sền sệt như hồ, dùng bàn chải cọ sát vào da gà, chấm nước nghệ chà vào gà, thoa luôn cả cẳng. Xong, ôm gà ra sân tắm nắng dịu trong bội, mai sau gà sẽ săn chắn như đá. Tắm nắng khô mình thì đem vào tẩm nghệ và xả nghệ (tắm bằng xác trà) cho phai sạch.
6) Sổ gà
Hớt lông và vô nghệ rồi, vài ngày sau bắt gà sổ thử, lựa hai con đồng chạn đồng sức, thường là sổ hai nước, mỗi nước 10 phút, sau mỗi nước nên cho gà nghỉ vài ba phút, coi chừng sổ lâu hư gà, cần nhất là sổ có chừng độ, nửa tháng một lần, cứ như vậy khoảng vài ba lần là có thể “cáp đá”. Trong khi sổ, phải biết “vỗ hen”, sổ xong nước đầu, phải vỗ hen, kẻo không trong họng có trầy trụa, sẽ đóng đờm thành cục, và khò khè thở mãn đời.
- Cách vỗ hen: Kẹp gà một bên hông, hai chân gà hổng đất, tay phải nắm đầu gà, ghì xuống, đưa ngón tay mở miệng gà, tay kia nắm một khăn sạch, có thấm nước, bóp cho nước chảy vào họng gà, đoạn ghì đầu gà chúi xuống vỗ bì bạch vào họng gà, bao nhiêu nhớt, đàm chất dơ ra sạch, khi thấy hết, cho gà uống chút nước cho thông cổ, còn có khi lấy lá trầu tươi hoặc lá ổi nhàu nát, gói một cục muối nhỏ bằng hạt bắp nhét vào miệng gà, đó là mún thuốc ngừa độc đón gió rất tốt, đoạn tắm sạch (chỉ dùng khăn ướt lau thân thể gà mà thôi, nếu làm ướt lông gà nhiều sẽ cảm lạnh mà chết). Xong, đem phơi nắng dịu, cho khô lông và đem đi nghỉ.
7) Dầm cẳng
Sau những bữa ăn tối, bắt gà “dầm cẳng” vào một chậu nước thuốc, cao đến đầu gối, nước ấy gồm có: nước tiểu pha rượu trắng + một chút muối ăn + một chút phèn chua + một ít thuốc rê + một ít đinh sét. Ngâm như vậy, cốt luyện cặp cán gà cứng như đá, khô rang như chân gà chết.
8) Nuôi thúc trước khi đá (dưỡng)
Thời gian nuôi thúc tối thiểu cũng phải 10 ngày trước khi đá, sau khi làm đủ cách huấn luyện như trên.
Mỗi sáng sớm từ ba đến bốn giờ (giờ nhất định), cho gà uống nước, uống thật điều độ, dùng chén có cỡ đong cẩn thận, không được để gà uống tự do (một ly là một ly), như vậy gà sẽ không hốc nước khi đá, bền sức hơn.
Sáng khoảng 5 giờ cho gà ra tắm sương, dùng một khăn lông phơi ngoài trời, từ chập tối, đến 5 giờ sáng khăn ấy sẽ ướt vì thấm sương trời. Trước khi thả tắm, dùng khăn vắt nước sương ấy cho gà uống ít giọt, rồi cũng khăn ấy lau khắp thân thể gà trước khi thả quần sương (kỵ đạp mái, gà mất sức), không quên phun vào gà một chút rượu trắng cho máu chạy đều. Đến chiều, mặt trời xuống, nắng dịu, cũng phơi gà một chút cho quen, cũng chẳng quên phun rượu. 5 giờ thả, 6 giờ bắt vô nhốt và cho ăn đúng bữa tuyệt đối. Bữa sáng từ 8 giờ đến 9 giờ, bữa chiều từ 6 giờ đến 7 giờ, giờ nhất định mới cho ăn, có thể sớm muộn đôi chút. Thí dụ: sáng 9 đến 10 giờ, chiều 5 giờ đến 6 giờ.
Thức ăn thường là lúc đãi sạch trấu, được ngâm nước cho mọc mộng mới tốt, hoặc lúa nấu chín, đem phơi nắng cho khô thì tốt hơn. Nhiều nơi công phu dùng lúa nấu chin, rắn men, phơi sương một đêm, phơi khô rồi dùng cho gà ăn, gà sẽ sung hơn, nặng hơn và chắc. Tới bữa cho gà ăn, gà đang ăn rồi thôi, bỏ đi chỗ khác, lập tức cất lúa ngay, mặc dù mới ăn ít (không cho ăn dầm dề), đến bữa khác mới được ăn. Nếu có thuốc tiêu, nên cho uống một chút sau bữa ăn.
Nước uống phải để luôn luôn cho gà (nước mưa là tốt), nước có cát bụi dơ, phải thay ngay. Ngoài hai bữa ăn chính, còn những thức ăn bổ dưỡng sau đây: khoảng hai hay ba ngày, cho gà ăn một quả trứng gà (chỉ ăn lòng đỏ), thịt, cá sống, nhất là lươn, chặt khúc nhỏ (đừng để mất máu tươi), cho ăn sống, các thứ rau, trong thời gian dưỡng, nên cho ăn cà chua, nếu có các thức đậu càng tốt (đậu xanh, đậu phộng, đậu nành v.v. ) thêm vào.
Những thức ăn bổ dưỡng kể trên, lúc nào có thì cho ăn, không cần thời gian nhất định, nhưng cũng không nên cho ăn no khi gần đến bữa chính là lúa, (không quên một vài ngày lại cho ăn sắt vụn một lần, mỗi lần ăn chừng vài cục nhỏ bằng hạt bắp, hạt đậu, sắt không có cạnh bén).
Buổi tối, trước khi đi ngủ, không quên ép gà uống nước một lần nữa, như thế gà sẽ nở cần cổ to hơn.
Trong thời gian thúc dưỡng, luôn luôn theo dõi phân gà, cho biết gà có phân khô cứng, tròn cục là gà sung sức, nếu đi ra nước, hoặc sệt là bộ phận tiêu hóa kém tốt, thiếu sung, cần nuôi gà thật chắc thịt, không bủng beo, và có mỡ dư, mập.
Lúc cho ăn được để trên cao, gà phải nhón gót mới ăn được (tập nhóng cao) sẽ tốt gà.
Cho gà ăn là khi ở nhà, lúc mang đi đá, tuyệt đối không thả cho ăn bậy, ngừa kẻ đầu độc. Đang nuôi thúc, nếu được gần một con gà trống khác (tương kiến bất tương đả), gà sung sức, đi tới đi lui tránh được mỡ dư càng tốt (hình thức như vần xoay).Trước khi đó, phải biết rằng gà không hề khó chịu trong mình.
CHÂN VÀ VẢY GÀ
Mặt tiền chân gà có 2 hàng vảy,được gọi như sau:
TÊN GỌI VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA VẢY GÀ
1. Án Thiên:
Tức một vảy lớn nằm sát đầu gối trên cao nhất.Nếu cách gối một hàng thì gọi là